HẬU CHIẾN, KHÔNG RIÊNG AI
Chương VII
Trần Xuân An
1
Tuần trước, khi Huyên men theo lối đi ven bờ hồ cá mới đào, phía sau hông nhà bác Uy cai trường, định qua quán 99 như đã hẹn với anh Văn và anh Tráng, lại tình cờ gặp bác ấy từ nhà đi ngược chiều sang trường. Bác Uy dừng chân, hỏi Huyên:
- Cái vụ thầy Ích rồi ra sao, thầy nhỉ?
Huyên cũng đứng lại, cười:
- Cái đó là giữa các vị trong chi bộ Đảng, Đoàn trường, đều là người Miền Bắc 75 chi viện với nhau, chứ giáo viên trẻ Miền Nam bọn tôi, lại chưa phải đoàn viên, đảng viên gì, thậm chí có người như tôi cũng chưa làm hồ sơ xin công nhận hết thời gian tập sự, thì can dự làm chi hở bác! Họp hành, biểu quyết, cũng đã được định hướng rồi. Cấp trên đã quyết định tất. Mà ai lãnh đạo nhà trường thì cũng vậy thôi.
Bác Uy vốn là người Bắc vào Nam mấy chục năm rồi. Bác ấy cũng cười:
- Bây giờ tôi mới hiểu thầy. Lâu nay tôi cứ tưởng thầy đã được vào Đoàn, vào Đảng rồi chứ!
Huyên lại cười trừ, và chào bác Uy.
Tối nay, Huyên ra quán “Bít tất” mua vài điếu thuốc lá. Khi từ cổng trường đi vào, gần đến lối nhỏ giữa dãy phòng học cũ và văn phòng, Huyên thấy anh Lê Thừa Ích mở cửa phòng hiệu trưởng:
- Huyên ơi, vào đây một chốc!
Chắc anh Ích đã nhìn thấy Huyên qua khung kính cửa sổ. Huyên bước lên thềm, vào chỗ anh Ích. Ngồi đối diện nhau qua chiếc bàn sa lông gỗ lắp kính dày, dưới ánh đèn ống trắng, Huyên thấy gương mặt anh Ích hơi phờ phạc, mệt mỏi.
- Anh cũng khoẻ chứ anh? Hen phế quản mạn tính, tiết trời này lại lạnh...
- Ừ, cũng hơi mệt thật. Lại thêm cái vụ bị thôi chức, phải lên Sở Giáo dục làm ba cái việc thuộc loại “dưỡng già” gì đó nữa, trong thời gian chờ quyết định của Bộ để về quê!... Thay đổi công việc, chỗ ở cũng phiền toái lắm. – Anh Ích hình như nén tiếng thở dài –. Mình cũng mong về quê, vì khí hậu ngoài đó phù hợp với bệnh hen phế quản của mình hơn cái xứ cao nguyên này. Hi vọng là ông anh ruột của mình, hiện đang làm trong cấp uỷ Bộ Nội vụ, sẽ giúp mình để được nhanh chóng hơn.
- Bộ Nội vụ?
- Ừ, Bộ Nội vụ tức là Bộ Công an đấy.
- Vâng, em biết rồi. Bộ Công an lấy tên là Bộ Nội vụ thì ai cũng biết.
Anh Ích rót nước trà vào hai tách sứ, từ bình thuỷ được đậy nút bằng một chiếc bóng đèn điện tháo chuôi, nhưng anh lại nói:
- Cậu uống tí rượu nhé! Cao hổ cốt thứ thiệt, chứ chả chơi đâu.
- Vâng, xin anh một chén nhỏ. – Huyên đáp –.
Anh Ích vào giường ngủ, phía sau chiếc tủ sắt đựng hồ sơ giấy tờ, lấy ra chai rượu. Rượu mạnh, cay nóng cả họng, nhưng thơm nồng.
- Bây giờ mình mới nói chuyện với cậu về bài thơ Tố Hữu trong dịp Tết vừa rồi. – Anh Ích cười buồn buồn –. Tâm trạng của mình lúc này cũng tương tự như “Đêm cuối năm. Riêng một ngọn đèn / Dở hay, khôn dại, những chê khen / Làm, ăn, hai chữ, quen mà lạ / Thế cuộc, nhân tình, rõ trắng đen...”. – Anh Ích nhấp thêm một chút rượu –. Đúng là con người có những lúc như thế thật. Thơ Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm, cả Nguyễn Công Trứ cũng thế. Nhưng với Tố Hữu, đúng là lạ thật. Trước đó, có bao giờ thấy hình tượng con người, cái tôi trữ tình trong thơ Tố Hữu như thế đâu! Mình cũng có thư từ trao đổi với anh em bạn bè ở ngoài Bắc, họ cũng bảo là như thế! Tình hình đất nước, chứ không chỉ thơ ca thôi đâu, chừng như đang chuyển mình, cậu ạ.
Huyên cảm thấy anh Ích “bắt mạch” đúng rồi, nên cũng nói:
- Đâu chỉ là hình tượng con người, cái tôi trữ tình, mà qua đó, thấy tình hình ở trên cấp cao đó chứ. Anh có để ý là Tố Hữu đã vận dụng linh hoạt thủ pháp nghệ thuật đối, không những làm nổi rõ các mặt đối lập của thế cuộc, nhân tình, ở khổ đầu, mà còn có ở khổ hai, khổ ba nữa, nhất là “tự cường – luồn lọt”, “gan góc – yếu hèn”, “cách mạng – hư danh”, “đóng góp – đua chen”, rồi lại có cả “tan bèo bọt – dậy tiếng kèn”... Thật ra, thủ pháp đối trong thơ cổ cũng có rất nhiều, như đối “hoa” với “lá”, “vượn” với “nai”, nghĩa là cùng bình diện, nhưng không nhất thiết phải đối với dạng đối kháng như phơi ra tích cực – tiêu cực ở bài “Đêm cuối năm”. – Huyên nói –. Em thấy ông Tố Hữu không những nói đến cái tôi đối diện với cô đơn, mà còn mạnh dạn đưa ra mặt tiêu cực, thậm chí là rất tiêu cực, như “luồn lọt” ngoại bang, vì nó đối với “tự cường” dân tộc... – Nhưng Huyên vẫn dè dặt –. Nghĩ như vậy có vượt quá ý tác giả Tố Hữu không anh?
- Ừ, thế thì cũng khủng hoảng thật. – Anh Ích chừng như muốn co lại với bản tính kín kẽ –. Thôi, cậu uống rượu đi. Mình rót thêm chút nữa nhé!
- Thôi, anh à. Rượu ngâm cao, mạnh quá!
- Mình cũng mới uống với Nguyễn Thái Tráng, thư kí công đoàn. Hơi say say rồi. – Ngừng một lúc, anh nói thêm –. Ngày mai mình lên Đà Lạt, nhận việc ở Sở. Trường này tạm thời do cô Phú Sơn, hiệu phó, làm quyền hiệu trưởng, và thư kí hội đồng Dương Sĩ Cảm được đôn lên làm hiệu phó thứ hai, vì anh Nguyễn La Sắc đã đi học quản lí. Rồi sẽ có hiệu trưởng mới về thay mình.
- Vâng, vụ việc đã do cấp trên quyết định rồi... Em chỉ xin chúc anh sức khoẻ.
Anh Ích và Huyên bắt tay nhau để chia tay.
Huyên mở cửa bước ra khỏi phòng, trở về nhà tập thể. Đêm cao nguyên lạnh thật, thảo nào anh Ích lắm khi phải lấy khăn bịt kín cả miệng lẫn mũi, có lúc phải thở hốc lên đằng mồm, tính khí đâm ra cáu gắt, khó chịu.
2
Có thông báo từ Sở Giáo dục gửi về Ban Giám hiệu điều động Huyên đi dự Hội nghị giảng văn Miền Trung tại Đại học Sư phạm Huế. Đó là một tin vui đối với Huyên.
Huyên lên Đà Lạt, gặp anh Nguyễn Công, trưởng phòng phổ thông kiêm cán bộ chỉ đạo bộ môn ngữ văn Việt. Anh Công đã mua vé xe khách và vé tàu lửa liên vận cho cả hai. Huyên trả lại tiền cho anh ấy, rồi sau khi đi về, sẽ nộp lại công lệnh cùng giấy triệu tập cho Trường Phổ thông trung học Đạ Nông, để nhận lại tiền tàu xe cả chuyến ra lẫn chuyến vào.
Xe khách sẽ chở anh Công và Huyên cùng nhiều hành khách khác xuống Nha Trang. Tàu thống nhất, dừng ở Ga Nha Trang, đã được đặt chỗ theo hợp đồng với Bến xe Đà Lạt.
Lúc xe bắt đầu chạy xuống đèo Ngoạn Mục, Huyên nghe những người cùng đi trên chuyến xe ấy chuyện trò với nhau về hồ thuỷ điện Đa Nhim:
- Hồ nước bị nứt nên không chứa được nước ở mức bình thường. – Một người nói –.
- Vì vậy điện dạo này cứ lúc tắt lúc đỏ. – Một người khác góp lời –. Chán quá sức!
- Hình như Nhà nước đang mời kĩ sư Nhật Bản sang sửa chữa hay sao đấy!
- Công nghệ của Nhật chẳng lẽ chỉ Nhật mới nắm bí quyết sửa chữa?
Đúng là ít lâu nay điện ở Đạ Nông lúc có lúc không. Những đêm không có điện, một giáo viên vật lí bèn nảy ra “sáng kiến” dùng kết hợp với điện đất. Anh ấy vẫn sử dụng một dây nối với nguồn điện bị cúp và một dây nối vào cọc sắt ngắn cắm xuống đất. “Sáng kiến” này chỉ giúp bóng đèn đỏ được sợi tung ten bên trong như lửa nhang, có thể soi thấy đồ đạc bàn ghế trong phòng để khỏi vấp té, nên được đùa là “tối kiến” – thấy lờ mờ trong bóng tối! Chính trong hoàn cảnh đó, trước Tết khá lâu, Huyên có làm một bài thơ về Đa Nhim và nạn đói năm Ất dậu 1945, rất tâm đắc. Lúc này, Huyên chợt nhớ lại...
Khi ra đến Huế, mới thấy Huế càng cạn kiệt hơn, và không chỉ về điện mà cả nhiều thứ nhu yếu khác như gạo và nước sinh hoạt.
Tuy vậy, Huyên cũng có niềm vui là về lại Đại học Sư phạm Huế, trường cũ, gặp lại các thầy cô giáo thời Huyên còn là sinh viên. Đại biểu Thuận Hải (Bình Thuận – Ninh Thuận), có Võ Nguyễn Tâm, vốn là sinh viên học cùng lớp với Huyên, nay cũng như Huyên, về dự Hội nghị.
Trong suốt mấy buổi ở Giảng đường Canada (tên thường gọi của Giảng đường I), các bản tham luận của các nhà giáo từ các đại học như Hà Nội, TP.HCM., Vinh, Việt Bắc và các trường phổ thông trung học Miền Trung (Thanh Hoá – Thuận Hải) cũng chỉ đi vào những kĩ thuật giảng văn, kể cả các kĩ năng hỗ trợ như nghệ thuật đọc diễn cảm, và đề xuất ý kiến về một số thuật ngữ như nên gọi là tác phẩm văn chương thay vì tác phẩm văn học... Huyên không thấy có một ai dám bàn về việc cấu tạo lại bảng phân phối chương trình với các bài giảng văn cụ thể. Nói rõ hơn, không một ai dám bàn về việc thay đổi nội dung phân môn giảng văn, chẳng hạn như phải dạy những bài văn chính luận, truyện ngắn, trích đoạn tiểu thuyết, bài thơ nào, thuộc bộ phận văn học hiện đại – cách mạng, cho phù hợp với tình hình tình hình hậu chiến (tuy vẫn còn có chiến sự ở biên giới phía Bắc và ở Campuchia), cả nước đã thống nhất hai miền, nội bộ dân tộc không còn mâu thuẫn địch – ta, rất cần hoà giải, hoà hợp... Vấn đề đó mà không bàn, nghĩa là không có gì mới. Huyên những muốn đăng đàn với nội dung như đã có lần bàn luận với anh Nguyễn Huynh ở Đà Lạt, nhưng cảm thấy không thể phát biểu như vậy được. Huyên ngại những phiền hà không lường trước. Và Huyên cũng cảm nhận là các đại biểu đều biết tự kìm chế như chính anh.
Không những không bàn về nội dung giảng dạy phân môn giảng văn, Hội nghị cũng không có ai dám thừa nhận công khai tình trạng chung là học sinh hiện tại đang chán ngán phân môn này. Nếu có chăng, ý kiến cũng quá kín đáo, lướt nhẹ, đến mức như không nói gì. Các nhà giáo đại biểu chỉ có thể nói thật khi chuyện trò với nhau bên ngoài hội trường.
Ngoài ra, hai bài của Nguyễn Minh Châu (1978), Hoàng Ngọc Hiến (1979) và mới đây, “Đêm cuối năm” của Tố Hữu (1982), không có một âm vang nào trong Hội nghị.
Võ Nguyễn Tâm, một lần đi vào nhà ăn tập thể cùng với Huyên, nói khẽ:
- “Vũ Như Cẩn”.
Huyên cười:
- “Vẫn như cũ” thật!
Sau Hội nghị, Huyên có tranh thủ đến thăm một số nhà văn, nhà thơ quen biết ở Huế. Trong một buổi tối, điện tắt như đêm ba mươi ở cả thành phố, Huyên đến nơi ở của một nhà thơ nổi tiếng. Nhà thơ tiếp Huyên dưới ánh đèn nến được cắm trên hai chân đèn gỗ sơn đỏ, vốn được đặt trên ban thờ gia tiên, nay tạm vô phép đặt xuống bàn tiếp khách. Từ phía này bàn, nhìn qua bên kia bàn, Huyên thấy gương mặt anh ấy như tấm ảnh chân dung của người đã chết, có điều nét mặt không được thanh thản hay ít ra cũng bình thường, như ở những tấm ảnh thờ khác, mà sinh động hơn, vì rất sầu héo, đau đời. Có thể anh ấy cũng nhìn thấy Huyên như vậy: một tấm ảnh Huyên đã chết, chết đau đời, sầu héo, giữa hai cây đèn thờ!
1982 là thời điểm đất nước mình đang ở trong tình trạng khó khăn cùng cực, không khí xã hội tù đọng, trì trệ, như cả đất trời đều ngột ngạt, oi bức trước khi mưa rào đổ xuống giữa mùa hè. Đó cũng là thời điểm những tư tưởng “xé rào” âm ỉ, như sắp sửa “bung ra” trong lĩnh vực văn chương, tư tưởng...
Sáng mai lại, anh Nguyễn Công tranh thủ ra Quảng Bình thăm nhà vài hôm, Huyên cũng ra Quảng Trị thăm mẹ và chiều vô lại Huế, để kịp vào TP.HCM..
TP.HCM. tuy xa đường hơn, nhưng vì đó là nơi dễ mua vé xe lên lại Đạ Nông, Lâm Đồng hơn, đường từ thành phố ấy lên đó cũng ít nguy hiểm hơn, và cũng vì Huyên có ý định tranh thủ thăm viếng nơi này, nơi khác, xem thử TP.HCM. có gì thay đổi, nên Huyên vào đó trước.
Không khí bức bối ở Huế, Huyên cũng nhận thấy được khi ở TP.HCM., nhưng TP.HCM. bộc trực hơn nhiều. Văn nghệ sĩ và nhà giáo đã dám nói thật, nói thẳng ra trong nhiều chỗ, nhiều nơi, kể cả những khi có các vị lãnh đạo cao cấp. Huyên nghe kể lại như thế, và cũng đã tận mắt, tận tai nghe những câu nói huỵch toẹt, những bài thơ có từ ngữ khá nghệ thuật, khí thơ rất mạnh mẽ, do chính các nhà thơ tác giả đọc trong cuộc rượu.
Chai rượu đã khô đến giọt cuối cùng, được dốc ngược, cắm vào cái li cối. Trên đít chai là cây đèn cầy. Chiếc đèn “dã chiến” kiểu đó được đặt giữa bàn rượu. Ngồi bên này bàn, nhìn qua bên kia bàn, người này thấy người kia như thể đang chụm hai tay bưng đèn đi soi tìm cái gì đó, với nét mặt vừa khổ đau vừa căng thẳng khủng khiếp.
Cũng tình cờ, trên một quầy sách ven lề đường phố, Huyên mua được tập truyện ngắn của Lỗ Tấn, anh đã đọc từ khá lâu rồi và nhiều khi có ý định tìm mua lại. Trong đó, có “Nhật kí người điên”, viết về một giáo viên trung học mắc chứng bệnh bức hại cuồng, hoang tưởng rằng chính bản thân anh ta bị anh em, bà con, xóm giềng hăm he ăn thịt...
1982, Huế là vậy, TP.HCM. cũng thế.
Và thật không may mắn chút nào, khi Huyên tìm đến nhà người bà con của Hồng Vàng tại một con hẻm khá rộng, dễ tìm ở quận Phú Nhuận, nhưng rất tiếc là Hồng Vàng đã lên thăm nhà ở Đà Lạt!
Huyên đành lên xe về lại Đạ Nông với nỗi buồn nặng trĩu xen lẫn niềm hoang mang, bức bối chung. Huế, TP.HCM., Đà Lạt, và cả huyện lị Đạ Nông nữa, đều một không khí xã hội như thế.