Đăng lên Facebook để tưởng nhớ
và tri ân những người lính, người dân Việt Nam tại Đà Nẵng, đặc biệt là tại SƠN
CHÀ, đã dũng cảm và mưu trí đánh bại liên quân Pháp – Tây Ban Nha ngay trận đầu
tiên chúng tấn công xâm lược (31-8-1858 – 02-02-1859).
1.
Sơn Trà (địa danh) là một bán đảo ở Đà Nẵng.
Trong nhiều sách sử, và cả văn bản hành chính hiện nay, Sơn Trà vẫn được ghi là
Sơn Trà. Tuy nhiên, mặc dù người dân Đà Nẵng vốn không phát âm sai phụ âm đầu,
đến nỗi TRÀ biến thành CHÀ, nhưng quả thật, 100% người Đà Nẵng từ xưa (ít ra là
trước 1975) đến nay vẫn gọi là SƠN CHÀ, chứ không gọi là Sơn Trà. Tại sao? Đã
có nhiều người bàn luận với nhiều cứ liệu và cách luận giải khác nhau. Tôi chỉ
xin cung cấp thêm một cứ liệu tôi mới phát hiện như sau:
Tôi mới tìm ra một cứ liệu khá thú vị về địa
danh Sơn Chà. Hóa ra có một loại cây, trái có tên dân gian thường gọi là cây
sơn chà, trái sơn chà. Trong cuốn “Tự vị
An Nam - La-tinh” (Dictionarium Anamitico Latinum, 1772-1773) của Pierre
Pigneaux de Béhaine (Bá Đa Lộc Bỉ Nhu), có đến hai mục từ phụ như trên: cây sơn
chà, trái sơn chà, được kí âm bằng bộ chữ cái La-tinh và giải nghĩa sang tiếng
La-tinh (1):
“Cây
sơn chà: Thứ cây gần giống như cây cau, người Bồ [Đào Nha] gọi là Romania”.
“Trái
sơn chà: Thứ trái cây giống như cây ô-liu, người Bồ gọi là Romania”.
Một mục từ gần gũi khác:
“Cây
chà là: Thứ cây gần giống như cây cau”.
Có thể cây sơn chà, trái sơn chà chính là một
loại chà là ở vùng Quảng Nam, Quảng Ngãi, hiện nay vẫn còn tồn tại, khác với
các loại chà là ở các vùng địa lí khác. Loại chà là được gọi là sơn chà này, chỉ
mọc lúp xúp chen lẫn với các loại cỏ dại, trên đồi trọc (xem: yeuquangngai .
net), khác loại chà là cao lớn (như cây cọ, cây dừa ở ta) mọc tại Ai Cập, Trung
Đông, Ấn Độ... Tuy thế, sơn chà của chúng ta cũng cho trái như chà là các vùng
khác, với hương vị gần y như vậy. Chúng ta cũng biết là còn có loại chà là biển,
mọc ở vùng ven bờ biển, như ở rừng Sác (thuộc huyện Cần Giờ, TP.HCM.), nếu tra
cứu trên Google tìm kiếm.
Phải chăng vùng bán đảo Sơn Chà (Sơn Trà),
vừa thuộc địa hình đồi trọc vừa thuộc vùng ven biển, nhoài xa ra biển, ngày trước
vốn có nhiều loại cây sơn chà này? Vì thế nhân dân Đà Nẵng đặt tên cho bán đảo ấy
là SƠN CHÀ và tự lâu đời cho đến nay vẫn gọi đúng địa danh là như thế trong lời
ăn tiếng nói hằng ngày, chứ không vì nguyên do nào khác, như nhiều tác giả của
nhiều bài báo đã bàn? Nói thế, chúng ta cũng có thể khẳng định, trong những trường
hợp khác, tri thức dân gian khi chưa được kiểm chứng, có thể có ít nhiều sai lạc,
nhưng trường hợp này, hẳn khó có thể có chút sai lạc nào.
Dĩ nhiên thông tin tìm thấy trong “Tự vị An Nam - La-tinh” với các chữ quốc
ngữ “cây sơn chà”, “trái sơn chà”, “cây
chà là” theo mẫu tự La-tinh thuở còn sơ khai đã dẫn trên (đúng y nguyên từng
kí tự, dấu thanh) cũng chỉ là một cứ liệu để góp phần lí giải trường hợp sai lệch
địa danh “Sơn Trà / Sơn Chà”.
2.
Tuy vậy, để cho khỏi gợn lên chút băn
khoăn, thắc mắc nào khác, có lẽ cũng cần dè dặt khẳng định là cứ liệu từ “Tự vị An Nam - La-tinh” cũng chỉ giúp
chúng ta hiểu rằng, địa danh “Sơn
Chà” theo cách gọi dân gian thực sự có ý nghĩa. Sơn Chà không phải thuộc vào loại
địa danh mất hẳn hoặc rất khó khăn trong việc tìm nội dung ý nghĩa (như Cùa, Sình,
Truồi, Kẻ Sặt…). Đồng thời, việc tìm ra nội dung ý nghĩa của địa danh Sơn Chà
cũng góp phần giúp hậu thế tin chắc đó không phải là một địa danh bị phát âm
sai.
“Tự vị
An Nam - La-tinh” không trực tiếp giúp cho chúng ta
việc xác định Sơn Chà có phải là một địa danh chính xác hay không. Để xác định
điều này, ngoài việc khẳng định đó là địa danh theo dân gian Quảng Nam, Đà Nẵng
(tục danh, tên thường gọi của một vùng đất, vùng nước, theo dân sở tại), chúng
ta phải tìm các văn bản hành chính dưới triều Nguyễn và dưới chế độ cũ
(1954-1975) như loại giấy địa bạ, thuế thổ trạch, giấy khai sinh, căn cước, trước
bạ, môn bài…
Ở đây, xét trên lĩnh vực sách sử, thì như
đã nói, nhiều sách sử, với mức độ phổ biến khá rộng khắp, kể cả sách giáo khoa
hiện thời, đều ghi là Sơn Trà. Nếu truy tìm ở loại sách thuộc loại tư liệu gốc
thường chỉ được giới nghiên cứu chuyên sâu sử dụng, như “Đại Nam thực lục”, “Đại Nam
nhất thống chí”, sẽ thấy “Sơn Chà” cũng rơi vào một loại “lỗi kĩ thuật” xuất
hiện khá nhiều trong việc ghi chép địa danh dân gian thành chữ Hán trong văn bản,
chẳng hạn như “Thanh Quýt” thành “Thanh Quất”, “Bến Nghé” thành “Ngưu Chử”… Đó
là loại “lỗi” bao gồm cả sự dị biệt trong âm Hán – Việt ở Đàng Trong so với
Đàng Ngoài và sự sai biệt do kiêng huý, nhưng vẫn được hiểu như là mặc định thông
thường trong việc sử dụng chữ Hán ở nước ta. Vì thế, không ngạc nhiên khi ở “Đại Nam thực lục”, “Đại Nam nhất thống chí” địa danh Sơn Chà lại được ghi là Trà Sơn
(theo kết cấu từ ghép trong chữ Hán) (2) (3).
Nói cách khác, đó là lỗi kĩ thuật trong việc
chuyển ngữ, từ tiếng Việt dân gian thành chữ Hán trong văn bản sách rồi lại được
phiên dịch ra tiếng Việt, người dịch lại không có điều kiện đi điền dã tại các
vùng đất liên quan trong văn bản…
Tuy nhiên, có một tư liệu cũng thuộc loại
tư liệu gốc cho chúng ta sự yên tâm, tin tưởng. Đó là “Quốc triều chính biên toát yếu” (4) do Quốc sử quán triều Nguyễn tóm
lược, biên soạn bằng Hán ngữ và cũng chính Quốc sử quán triều Nguyễn dịch ra tiếng
Việt ở dạng chữ quốc ngữ theo mẫu tự la-tinh (chữ quốc ngữ ABC). Chính tư liệu
gốc này giúp chúng ta khắc phục được lỗi kĩ thuật chuyển ngữ trong các cuốn
sách nói trên.
Trong “Quốc
triều chính biên toát yếu”, Sơn Chà không phải bị ghi là Trà Sơn hay Sơn
Trà, mà đúng là Sơn Chà. Có đến hai đoạn đề cập đến địa danh này:
“Năm
Canh Thân thứ XIII (1860), tháng giêng, tàu binh Đại Pháp ở vũng Sơn Chà chạy
đi, nhưng còn ở lại Chơn Sảng và Đà Nẵng. Ngài dụ khiến 2 đạo quân thứ Quảng
Nam và Hải Vân nhắm thế mà chỉnh bị” (5).
“Tháng
3, Đại Pháp sai đốt các đồn An Hải, Điện Hải tại núi Sơn Chà, rồi những tàu
binh đậu vũng Sơn Chà đều chạy đi hết. Ngài dụ quan Quân thứ và các địa phương
chỗ nào có hải phòng phải phòng bị cho nghiêm ngặt”
(5).
Địa danh “Sơn Chà” được hai lần nhắc đến
trong hai trích đoạn trên đã giúp chúng ta thật sự không còn chút băn khoăn, thắc
mắc nào nữa, khi xác định Sơn Chà, chứ không phải Sơn Trà như trên giấy tờ hành
chính hiện nay; và còn không nghi ngờ gì nữa, đó chính là một địa danh, không
những trong lời ăn tiếng nói hằng ngày của nhân dân Quảng Nam, Đà Nẵng, mà từ
xưa cũng là một địa danh hành chính chính thức.
T.X.A.
23 & 24-7 HB14 (2014)
(1) Xin xem mục từ
CHÀ, sđd., bản dịch của Hồng Nhuệ Nguyễn Khắc Xuyên, Nxb. Trẻ, 1999, tr. 64.
(2) Quốc sử quán
triều Nguyễn, “Đại Nam nhất thống chí”,
bản dịch: Phạm Trọng Điềm, hiệu đính: Đào Duy Anh, tập 2, Viện Sử học và Nxb.
Thuận Hoá xuất bản, Huế - 1992, tr. 345-346, 368, 371 và 379. Trích tr.
345-346: “Núi Trà Sơn: […] Phía đông liền
biển, phía đông nam có một hòn núi tiếp liền trông xa như hình sư tử, tục gọi
là hòn Nghê. Tương truyền trên núi có ngọc, đêm đến thường chiếu sáng xuống biển.
Phía tây có hòn Mỏ Diều, có pháo đài Phòng Hải ở đây, phía bắc là núi Cổ Ngựa,
đối nhau với hòn Ngự Hải đứng sững ở cửa biển. Phía tây cửa biển là vũng Trà
Sơn, là chỗ trú ẩn cho tàu thuyền. Núi rất nhiều lam chướng, có hơn 10 giếng nước
độc…”; trích tr. 368: “Vũng Trà Sơn: ở
phía bắc huyện Hoà Vang, lại có tên là vũng Đà Nẵng, phía đông là núi Trà Sơn,
phía bắc là núi Hải Vân; phía tây là tấn Cu Đê, dài rộng ước 29 dặm linh, phía
đông nam là vụng Trà Sơn, là vụng biển lớn, vừa rộng vừa sâu, có thể chứa được
hàng ngàn thuyền ghe, phía ngoài có núi che, không phải lo về sóng gió, tàu
thuyền đi lại gặp lúc chưa tiện gió, phần nhiều đỗ ở đây…”. Hai trích dẫn
này và trích dẫn ở chú thích (3) bên dưới nhằm xác định vị trí địa lí của Sơn
Chà: đó là Sơn Chà, cho dù nó được ghi là Trà-sơn, Trà Sơn hay Sơn Trà.
(3) Quốc sử quán
triều Nguyễn, “Đại Nam thực lục, chính
biên”, bản dịch Viện Sử học, tập XXIX, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội – 1974,
tr. 96: “Thuyền quân của Tây dương ở
Trà-úc kéo đi. Nhưng vẫn còn mấy toán đóng ở 2 xứ Chân-sảng, Đà-nẵng. (Các đồn
Định-hải, An-hải, Trà-sơn, đều thuộc Đà-nẵng). Vua dụ sai 2 quân thứ Quảng-nam,
Hải-vân xem hình thế mà chỉnh bị việc phòng giữ”. Xin lưu ý địa danh “Trà-sơn” được nêu rõ và xác định trong
đoạn trích.
(4) Quốc sử quán
triều Nguyễn, “Quốc triều chính biên toát
yếu” [QTCBTY.] (bản dịch tiếng Việt của Quốc sử quán), [chủ biên: Cao Xuân
Dục, biên soạn: Trần Đình Phong (hiệu chính), Đặng Văn Thuỵ, Lê Hoàn, biên tập:
Nguyễn Đức Lý, Nguyễn Tư Tái], Nxb. Thuận Hoá – Huế, 1998.
(5) QTCBTY., sđd.,
tr. 422 & tr. 423.