NHỮNG VƯỜN TRẦU CAU
NHỮNG CÁNH RỪNG CAO SU
I
đá tảng trơ vơ xứ lạ
bờ sông xao xác mịt mùng
cau gầy vói trông mấy nẻo
gió hỡi về đâu chập chùng
hơi cây dây trầu quấn quít
linh cảm khói sương mung lung
quả cau rưng rưng con mắt
vôi nồng tâm trắng, lửa nung
cay cay hình tim dáng lá
nghĩa thơm tình ngát trinh trung
đời đời thiêng liêng máu thắm
say say hồn thơ vua Hùng
II
vấn vít quanh thân - dấu khấc
hóa một, cao su điệp trùng
mang cái chết màu tang trắng
của chất đá trắng tận cùng
máu đỏ buồn đau trắng máu
nghĩa sinh đôi, máu không ngưng!
như dáng mẹ ngồi, bú mớm
bát cơm bầu sữa nào lưng
ngỡ sống lại tình máu mủ
xanh, cao su xanh lạ lùng!
trầu lặn vào cây còn vết
muối biển trắng giọt chưa ngừng
thắm hòa xưa ba thân phận
cao su nhập một, thành rừng
thanh kẹo Trầu Cau ngát quyện
mặn hương, ngọt giọng hương gừng
hồn xưa xưa sau thi sĩ
cho loài người tứ thơ chung.
1993
TẤM LÒNG
bất ngờ trước những tứ thơ
những trang văn, vẫn có ngờ được đâu!
bàn tay tìm đến nỗi đau
trái tim nghe tận nguồn sâu mạch đời
chút tình rộng mở đến tôi
cái nhìn gắng trải khắp trời nắng, mưa
bao điều đã viết và chưa
cơ hồ thấm thía như vừa đọc xong
văn chương tự những tấm lòng
mãi trong veo mãi ngát dòng Sông Hương
các anh vào, nắng vườn dương
cứ bâng khuâng ở bên đường làng quê
tôi ngồi đến cạn đèn mê
mảnh trăng vằng vặc lại về trong tôi.
1985
VỚI NHỮNG NGƯỜI BẠN BÔNG ĐÙA
BÊN HỒ HOÀN KIẾM
hồ tỏa khói mờ, trời xuống mây mơ
ngàn cánh nắng mai đậu trên Thê Húc (1)
em là trăng, nên ngày không còn thực
rất hoa đào, thắp ấm một hừng đông
ngỡ em quan họ tung lụa cầu vồng
hay từ tay áo nâu sồng màu đất
lược cài tuổi thơ tươi son em cất
tự tiền kiếp nào, hóa Thê Húc xinh
em, con ngỗng trời huyền sử lung linh
bỗng bay bên vai, trắng ngần Hà Nội
tôi mặc áo the, đội khăn, tóc bối
guốc mộc bước qua, ngắm truyền thuyết xưa
lẫy nỏ Rùa Vàng, tên bắn như mưa
triệu tia mặt trời gãy trong làn nước...
khi chụp ảnh với Thánh Trần, mắt ngước (2)
thấy gươm thần thành Tháp Bút, ngút trời
thi sĩ bông lơn đồng bóng giữa đời
nhặt lá bồ đề, ép tim vào sách
nửa thành Đài Nghiên - cái tâm hóa thạch
nửa hóa Rùa Vàng - chút tình thành kinh
yêu các em như trời đất, thất tình
đáng đời chăng, kẻ chỉ mê tín sắc
ơi ni cô đẹp nét không thơ Phật
ơi trăng ơi đào, ngỗng trời yêu ơi...
Hà Nội, 02.03.1997
Tp. HCM., 12.03.1997
(1) Thê Húc: nắng ban mai đậu lại.
(2) Đền thờ Trần Hưng Đạo (Đức Thánh Trần) ngay trong chùa Ngọc Sơn.
NGẪM KHỔ ĐẾ (1), TẢN MẠN NIỀM VIỄN TƯỞNG
QUANH CHÙA MỘT CỘT
ni cô cùng anh rong chơi
thăm chùa xưa - đóa sen đời sắc nâu
vuông hồ gói cả trời sâu
hay khăn lụa biếc óng màu chép kinh?
đọc từng hoa súng, giật mình
chùa này, bóng ảo của xinh xắn này?
nâu sồng ơi, nghìn xưa đây
khói hương là thoáng sương bay hương đồng
cửa không, thơ-không-hư-không
dáng chùa, ngọn đuốc tỏa hồng lửa thiêng
nhớ xưa, một nụ hôn thiền
ấm phương nam ngưỡng vọng miền tâm linh
hoa súng ơi, anh đa tình
nhìn đâu cũng thấy lung linh hoa đầy
ngỡ bừng đuốc tuệ đêm ngày
thôi hiểu nhầm quả đất này: trần gian
địa ngục? cũng thành niết bàn
khi hai tay khỏe tưởng ngàn cánh tay
cõi người viễn tưởng, hồn chay
với Tự Nhiên, ta hết giày vò ta
cùng ni cô giữa ta bà
tâm đau khổ đế, la đà buồn ai (1)...
tự thưa, tên kẻ khổ sai:
một mái nhà và chẳng hai bạn tình (2)
cô em ni cô hát kinh...
quanh chùa Một Cột gặp mình đang bay
phật đày thương chăng phàm đày (3)
hạnh bồ tát tu trong cay đắng đời
người bóc người, đỏ mồ hôi
tình lột tình, gió tình ơi, héo tình!
vấp chân ngọn cỏ sơ sinh
giẫm dăm chú kiến, giật mình. Cứ đi!
về thôi, bông súng từ bi
anh còn cày ruộng xanh rì trang thơ
địa ngục? Ừ. Yêu ngẩn ngơ
lúa thơm vào áo, gạo no tâm hồn
cõi người viễn tưởng, yêu hơn
cũng là quả đất đầy tròn dưới chân
mộng mơ thơ biếc bạt ngàn
nai nhà rộng trảng ngựa hoang quên rừng
vẽ vời cùng cô em cưng
nông trang chùa dựng nâu cùng dáng em
búp nâu nở một cánh mềm:
ngôi chùa hoa súng ngày đêm một người
mặn mà mắt mặn môi tươi
phật yêu dấu là tiếng cười anh thương (3)
chùa trong anh, đi muôn đường
chùa em, hoài ghé nghe chuông, xanh đời.
Hà Nội, 03.03.1997
Tp. HCM., 13.03.1997
(1) Khổ đế (một trong tứ diệu đế Phật Giáo): chân lí về khổ đau; khổ đau của hiện thực trần gian là có thật. Tập khổ đế: nguyên nhân khổ đau, trong đó có tư hữu... Trần gian, theo đó, là địa ngục (tất thảy chúng sanh, gồm cả loài người, đều là tù nhân bị đọa đày khổ sai).
(2) An, theo chữ Hán, tượng hình: một người nữ dưới một mái nhà.
(3) Phật (Buddha), chữ Phạn: người giác ngộ chân lí ngay trong đời sống, dù là đời sống phàm tục. Ai cũng có thể là phật với ý nghĩa đó.
VU VƠ CHIỀU VĂN MIẾU,
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGHÌN XƯA
Thiên hà ngôn tai!
(Trời có nói gì đâu!)
Khổng Tử,
''NGƯỜI THẦY GIÁO CỦA VẠN ĐỜI''
1.
cô nàng mặc áo tứ thân
từ nghìn xưa đến hát gần bên tôi
điện thờ, thầy Khổng sững ngồi
nhập thân tình tứ chọn lời Kinh Thi? (1)
thưa em, duyên yêu là chi
râu nghiêm bạc, úa tim si thánh hiền
đâu vô danh vô vi thiền
đây bia chất xám, niềm riêng chói trời
giọng ca như rượu chuốc mời
em quan họ khảm vào đời ảnh em!
2.
tôi quỳ bên vuông cỏ mềm
chớp phim bè bạn, gió thêm rối bời
soi tôi xuống nước, nhìn tôi
mỗi bọt chữ mỗi lả lơi ỡm ờ!
vì đời, thầy Khổng tìm thơ
ngọt nồng em hát thực mơ, dâng đời
tiếng thơm, thơm cho nơi nơi...
(vẫn thương kính Lão tuyệt vời, quên danh
Gióng vô danh hóa Trời Xanh (2)
nghìn sau nhang khói vờn quanh tâm hình!)
3.
rùa thiêng, biểu tượng thần linh?
bia tên tuổi trĩu dân mình, bước lê?
lưng rùa, dựng sách tỉnh - mê
mê, bành trướng, mê, a ê bao đời! (3)
(như Thánh Kinh vút trùng khơi
da dê mục chữ nhầm lời, buồn không!)
một thẻ tre cách điệu xong
mai rùa một mảnh - mênh mông: bia ngời...
''đàn bà khó dạy''?! ấy ơi (4)
tôi nhạt đạo, ngoại đạo rồi, thưa em
4.
tháng giêng Văn Miếu, bên thềm
ngắm nàng đàn trong êm đềm chiều xanh...
thầy Chu An ngát hương thành...
yêu là Đạo? tôi tập tành trăm năm
ngài ơi, công nghệ lú câm
giàu nhân nghĩa sao âm thầm rạ rơm?
cái danh cái lợi - cái hòm?
cái tình, và cái lom khom rạp mình!
... tâm linh - ơn dựng miếu đình
tâm hồn, ngài hỡi - môi xinh í ời
5.
tôi về gò Đống Đa thôi
thắng Tàu, bởi học, vượt lời Tàu xưa!
Hà Nội, 02.03.1997
Tp. HCM., 14.03.1997
(1) Ở đây, chỉ chú trọng mảng đề tài lớn nhất trong Kinh Thi: yêu đương (phần Quốc phong).
(2) Lão: ông già. Gióng: (tên làng). Thánh Gióng là biểu tượng Chiến sĩ Vô danh.
(3) Phần hạn chế trong Kinh Thi (chủ yếu trong Tiểu Nhã, Đại Nhã, Tụng). Kinh Thi chỉ là một trong chín pho sách kinh điển của Khổng giáo. Cả chín pho đều bị mất mát ít nhiều, lại bị lắp ghép, xuyên tạc, thêm bớt.
(4) Quan điểm của Khổng giáo về phụ nữ.
QUẢNG TRỊ, TRĂNG BÀU VỊT
trăng, anh đã tuổi năm mươi
đôi tay sần chai kềm búa
đang say khướt thơ
hồn ngất ngưởng trên từng câu chữ
trăng, anh hớt tóc cạo râu
quán dựng ngã tư đường
thơ xoáy buốt
tuôn tràn
sóng vỗ vào chân, giả
trăng, anh tơ vò thế cuộc đảo điên
khổ đau và kinh sợ
phó thợ may ngày ngày vắt sổ
khát thèm như đêm nay sống thật cùng thơ
trăng, giọng hát kia nồng ấm không ngờ
ơi nhân sĩ làng quê họ mạc
đau đớn mười lăm năm
còn xa quá bến Tiền Đường
thơ nương thân vào ông chủ bác tài
xe khách
trăng, anh thầy thuốc tây búng đàn
môi run thầm thì từng nốt nhạc
trăng, anh thầy thuốc bắc
tóc thả bềnh bồng
hồn lãng tử
giọng ngâm mượt mà da diết
mông lung
trăng, tạm lãng quên lãng quên
bao điều khô quắt
hai anh giáo văn chương đêm nay,
say, say nồng
say thật
thơ hơn
trăng, ơi nghiệm số trái tim
anh dạy toán chẳng cách nào tìm được
đến cùng thơ và nhạc
lung linh, chỉ thấy trong lung linh
tôi tách khỏi tôi đang giữa chúng mình
trăng, bàu nước tre pheo
ngát đêm dân dã
quê hương quê hương trăng trăng trăng trăng
tôi vẽ bằng thơ chân dung Quảng Trị.
01.01.1991
MỘT Ý THU ĐÃ CŨ
mùa thu muôn đời trời xanh
muôn đời lá ở trên cành, vàng, rơi
thơ mùa thu của muôn đời
đang còn nguyên giữa hồn tôi, cũ càng!
bao ngày thu mới, bàng hoàng
bút sao trơ nhạt đôi hàng thơ thu?
hay mình cứ mãi giam tù
trong thơ kinh điển, hóa ngu muội rồi!
chữ xưa, giấy úa, rơi thôi
tan vào đất, cho cây đời lại xanh
tan vào em, tan vào anh
trời thơ cao vút, trong lành, cao hơn.
02.11.1990
NHÀ SAO
hơn mười lăm năm qua rồi
tôn thời chiến tranh còn đó
mảnh đạn găm dày lỗ chỗ
ngày đêm, sao mọc khắp nhà!
trăng chiếu vào, đèn soi ra
nắng cũng thắp ngàn sao lạ
nhưng đợi nhà xây khắp đã
chuyện khổ thành tứ nên thơ
hơn mười lăm năm cứ chờ
ha hả bật cười, chờ mãi
nhà xây mới vài mươi cái
làng vẫn ngân hà, nhà sao!
thì biết chờ đến khi nào
nói đùa không rơi nước mắt
nhắc lại những cơ cực khác
nói trạng và cười, nhìn nhau.
19.10.1990
CẦU NỐI NHỮNG CHÂN TRỜI
vòm khí quyển xanh trong
nhưng nào đâu mái nhà chung?
tuổi thơ bao chân trời kia
khóc gào khản tiếng
cầu vồng, cầu vồng
cũng chỉ là khát vọng hiện lên
trên thép súng nhẫn tâm Vùng Vịnh
trên nhẫn tâm dầu tràn mặt biển
quả đất là tổ kiến
treo trên cành ước mơ
đôi khi ấm ức
bảy màu cầu vồng!
tuổi thơ đôi khi lồng lộng và vòi vọi
ngỡ dải giấy hoa ngày hội
bảy màu cầu vồng
nối những chân trời
thành mái nhà chung
quả đất đôi khi thành trái bóng
cho trẻ thơ sút một đường cầu vồng
từ thiên hà này sang ngân hà kia
và vụt thành Thánh Gióng
rong chơi cỡi ngựa nhong nhong
bay vào công nguyên Hòa Bình, hừng đông.
14.02.1991
ĐỊNH CƯ
bây giờ
có nhà thơ tìm đến rừng cây
nhòa mình trong màu xanh sương khói
tự do phải mua ư!
thôi thì đành phạm tội (*)
cam thân ở ẩn giữa rừng người?!
02.07.1991
(*) Có nhà thơ phải phạm tội hối lộ để được nhập cư.
NGỒI Ở QUÁN BIA
với đồng chí công an
ghé vào nhấp chút men bia
các em đến ngồi bên cạnh
từng sợi tóc mang bão giông xứ Thanh
buốt lạnh
cứa vào tâm hồn tôi
thịt da tê dại mất rồi
em, em say chưa, sao đôi mắt đôi khi quá tỉnh
có chút chi như buồn rầu nhẩm tính
hôm nay mất thêm gì?
rồi sẽ được bao nhiêu?
kính lạy các em, đâu phải là Kiều
ôi liêu trai đèn mờ, nhập nhòa
lung linh phấn son của nhạc
có giấc mơ nào vung lưỡi gươm phẫn uất
xuống nhà thơ và công an?
với nước mắt ăn năn?
Tố Như kính yêu, Người có bao giờ
suýt hụt chân
chết đuối dưới vũng đen nghiên mực?
tôi hóa thú, rơi đê mê vào ngực
nhỏ nhoi như con ong cái kiến thiêu thân
ánh đèn màu ánh đèn màu (*)
hắt ánh buồn vào tôi trơ trẽn
bao lần
(giữa khi nghệ thuật lắm lúc
chỉ là lầu xanh hay nhà thổ!)
ánh đèn màu ánh đèn màu
tôi nguyền rủa tôi trong vòng tay
quỷ ma cám dỗ
quyết trải nghiệm hết mình
trái tim hồng thành khối nặng dục tình
và cô đơn
tôi ghê tởm tôi, nén tiếng cười
trước trang thơ xanh non
quán đèn mờ đánh lừa nhau trong cơn mê
ảo giác:
các em trinh nguyên và tôi hành khất
đồng chí công an ơi,
hay tôi là hoàng đế giữa một
đàn cung nữ ngọc ngà?
Kiều ơi Kiều, em có chăng?
ánh đèn màu, buồn trong cõi người ta.
08.10.1991
(*) Ánh đèn màu (Limelight): tên một bản nhạc của Sác-lơ Sáp-lin (Charles Chaplin).
CHẠM VÀO HƯ KHÔNG
buồn đau cùng thiên hạ
bay thoát vào trời xanh
hoang mang, về, đói lả
làm chi cũng không đành!
ơi cánh chim bé bỏng
niềm vui là cố vui
biết khát vọng - biết sống
hư không đâu?
sao ngủ vùi!
06.11.1991
CỨ SỐNG HẾT MÌNH, NGÀY MAI
của ngày mai, khổ đau và hạnh phúc
làm sao biết được bây giờ
cũng không làm sao chọn lựa?
thì việc gì phải chờ đợi âu lo?
08.01.1991
CA DAO TRĂNG VÀ HẸN
bóng chim đã tắt cuối trời
nắng chiều vơi xuống núi đồi mờ xa
bâng khuâng chờ ánh trăng ngà
cùng ai đúng hẹn đến nhà thăm ai.
23.10.1990
ĐẾN VỚI NHỮNG NGÀY THÁNG TRONG LÀNH
rối rắm những gì không thuộc về tình ta
quên đi, đừng nhớ
quên hết bụi bặm lẩn vào hơi thở
hãy tìm đến nhau!
yêu, đôi khi là quên
tất cả có thể ngậm ngùi tạm bợ
cát bụi ngậm ngùi!
tình thơ cõi thơ không thể vùi quên!
vì trái tim trăm năm nghìn năm phải thở
không phải dễ mục nát như ngai vàng ngai đen
anh mời em lên mênh mông ngai gió
bên bờ sông thơ không bao giờ lãng quên
nơi trái tim thênh thang hơi thở.
31.12.1997
THƠ VÀ HAI CHỮ TÌNH YÊU VIẾT HOA
(thơ bạt)
dẫu thơ là tinh huyết người thơ
kể cả cái tôi trữ tình
(biểu hiện hay tự biểu hiện...)
tất thảy chỉ là hình tượng
hư cấu
từ chất liệu đời!
vẫn tin vẫn hi vọng
''hư cấu còn thật hơn sự thật''
của thế giới hiện thực!
vẫn tin vẫn hi vọng
với nhiều khuôn mặt khắc đậm
vào một trái tim phơi mở
''cùng nhìn về một hướng''
thơ ca là tiếng hát mỗi người
tiếng hát cuộc đời, ơi Tình Yêu!
với ý thức về giới hạn
người thơ trải nghiệm lắng nghe soi thấy
tiếng đời hồn đời thinh lặng
dọc mọi nẻo đời thinh lặng giữa ồn ã
giữa hiu hắt
và viết
với cao vọng
thơ ca là tiếng hát mỗi người
tiếng hát cuộc đời
dẫu thơ là tinh huyết rất riêng
của người thơ
ơi Tình Yêu!
1995
NIỀM TIN VÀO LƯƠNG TRI
(thơ bạt)
lương tri Quả Đất lại thao thức
trong đầu óc con người
không phải nạm chói ngai vàng
cất đầy két bạc
chân lí phù du chăng?
phù phiếm chăng sự thật?
như phù hoa áo mão cân đai,
rực rỡ hồng y,
lóng lánh đại cà sa (!)?
Quả Đất chỉ là hạt bụi giữa vạn thiên hà
sáng nhờ nắng, còn sáng lên
nhờ lương tri tỏa nắng
sự thật - mất lòng, chân lí - nghẹn ngào cay đắng
những giai cấp, thể chế rụng rời, nhưng
triệu triệu lương tri
làm Quả Đất ngời thêm
bao nhà thơ nhà khoa học thắp ngọn đuốc
hoài nghi và cao vọng đêm đêm
bao chính khách doanh gia ung dung trong
dinh cơ xây bằng ngàn chiếc đầu chất xám
ai thực tế lạnh lùng?
ai ảo tưởng phiêu bồng đa cảm?
ai tin vào lương tri Quả Đất?
ai tin vào thời gian?
cái thuộc về vĩnh cửu là lợi chăng?
danh chăng? Sức bền, tuổi thọ
quá mỏng manh chóng tàn
khoa học sánh vai thơ ca
bước cùng lương tri
cùng thời gian bát ngát
tất cả đều còn lại: ánh sáng là
cái còn lại tuyệt vời! thời gian và
lương tri đãi lọc, làm ngời thêm Quả Đất
dẫu trái tim hóa hầu bao của giai cấp,
thể chế, biên cương... uất máu, tối sầm!
sự thật sẽ đui điếc, chân lí sẽ ngạt câm
với gông xiềng của áo cơm, bổng lộc
thắp lên lương tri, thoát cả màu da,
siêu vượt lên dân tộc
để trở về trọn vẹn chính mình,
cùng sự thật thật hơn
chân lí chân hơn
niềm tin vào lương tri Quả Đất, lương tri
Việt Nam bừng sáng xanh non.
11.01.1998
GIỌT MỰC, CÁNH ĐỒNG
VÀ VỞ KỊCH ĐIÊN
phần hai:
Giọt mực xanh trên cánh đồng xanh
NGỤM NƯỚC DƯỚI CHÂN CẦU TIÊN AN
đến với người mẹ giải phóng anh hùng,
thơ ca xé lòng và hào tráng
ngồi bên lão lính ngụy hành khất cụt què,
thơ ca xót xa mơ trại tình thương
uống ngụm nước Bến Hải vọng nhìn
Hiền Lương,
nghe ngọt nồng và mặn đắng
dòng lịch sử tuôn ra khơi xa,
xin mưa lại về nguồn.
09.01.1998
THƠ TÌNH CỦA NGƯỜI DU KÍCH
1.
gió dừng trên tóc mình ơi
lòng em cháy bỏng mặt trời ban trưa
ra sân ủ mắm phơi dưa
nhớ da diết những mùa mưa có mình
nước dâng giấc ngủ dập dềnh
ngồi hầm cứ tưởng dầm kênh bủa chài
nghiêng lưng ngước mắt ra ngoài
trời lên nắng hửng nhớ ngày trồng dưa...
nắng bù bóng tối năm xưa
em bù công sớm việc trưa hộ mình!
2.
có nhau, hầm chật nằm nghiêng
có đất đai, có xóm giềng, mất nhau!
máu rơi máu ứa hào sâu
bưởi trồng chỗ đất còn đau suốt đời
hoa thơm trĩu nhánh mình ơi
trắng lòng em những nụ cười đánh đêm
bưởi ra trĩu nhánh lung liêng
trái nghìn giọt lệ, cứng thêm lòng người
ta như hạt giống đất vùi
bom xô cành chiết, vói trời nở sao!
1976
HỒN HẬU CHÚT NIỀM CA DAO ĐẤT MỚI
CỦA NGƯỜI LÍNH NGỤY THƯƠNG MẾN
về thăm mai mốt mình lên
rẫy nương ơi, nhớ đừng quên đâm chồi
mình đi, nhớ lắm đi thôi
rẫy ở lại, có nhớ lời mình không?
lưng cà mang nặng đừng cong
lắm em, ngô nhớ hông bồng cõng vai
còn khoai nữa, nhớ chưa khoai
sinh con bụ bẫm bằng hai mùa rồi
giàn bí cũng đừng ham chơi
cùng ong bướm, quên ru nôi em nằm
bầy heo giữ tạng ăn tham
gà cũng vậy, đừng xéo mầm phá cây
mình dặn đi dặn lại hoài
thương mình đừng bỏ ngoài tai lời mình
một quê ở, một quê sinh
xa đất mới để gặp mình phố xưa
lên đây quen nắng quen mưa
nửa lòng muốn nửa lòng chưa muốn về.
1976
QUÊ HƯƠNG TRONG GIỌT SỮA MẸ
trong đôi bầu sữa mẹ
chứa bao nguồn yêu thương
nghe hoài nhưng thấm thía
là từ khi có con
ngay bữa ăn ngày thường
nội vẫn nhường cho mẹ
sữa càng thơm môi bé
lòng nội càng ngát hương
ruột rà và tình thân
cũng góp cho sữa ngọt
ba thôi còn ngơ ngác
vì biết làm cha hơn!
ấm áp tận tâm hồn
vú sữa tươi tròn thế
trải qua thời tuổi trẻ
nội hiểu giọt sữa thơm
ôi đôi bầu sữa mẹ
đâu chỉ một ngọn nguồn
nội và tình và nghĩa
khơi dòng sữa trào tuôn!
sau này nhớ nghe con
Diên Sanh trong sữa ấy
nhịp trái tim nhắc mãi
thế nào là quê hương.
1988
TẠ ƠN CA DAO
mẹ bây giờ lại ru con
như ngày xưa nội mỏi mòn ru ba
tưởng như gần, ngỡ như xa
nghe vang vọng tiếng ơi à nghìn xưa
bài thơ, ngọt ấm chiều mưa
cái tên từ nhịp nôi đưa thuở nào
tạ ơn bao khúc ca dao
sữa nguồn ruộng đất đọng vào ước mơ
cho ba một đời làm thơ
mai sau bé hát, bây giờ mẹ ru.
1988
ĐẾN BAO GIỜ
Tổ Quốc ơi, con đã nghe
đâu phải từ thuở mười lăm mười sáu tuổi
ai cũng từ lòng mẹ yêu thương nóng hổi
ôm ghì chiếc nhau ôm ghì tảng đất thiết tha
đã nghe âm vang tiếng nói ông cha
từ lồng ngực mẹ
Tổ Quốc ơi! Con Người ơi!
Tình Yêu Lớn có trong ta như thế!
trên mảnh Đất Vàng
tung tăng đôi chân thời tấm bé
đất và màu da
sâu thẳm, cội nguồn
Tổ Quốc gieo ra bao hạt mầm nho nhỏ
mãi bừng lên mùa xuân nối tiếp mùa xuân
cho một đời ta gắn bó
đâu chỉ thuở mười lăm mười sáu đó
ôi, quá đỗi thâm trầm
tiếng gọi thiêng liêng cất lên giữa thời
máu lửa
và Tổ Quốc ơi, con đã nghe!
cảm ơn người thầy dìu dắt chúng ta đi
giữa lớp học nhập nhòa, lóe lên bao tia sự thật
cổng trường căng áp phích
như cởi tung lồng ngực
những trái tim cháy bùng khát vọng:
Tự Do
ta đã đến bao ngôi trường ngoại ô
báo trong tay, ngạo nghễ vung cao:
Tự Do hay là chết!
trăm tờ báo vụng về không chứa hết
niềm tin đánh thức: Tự Do
phải có Tự Do để giành lại muôn nghìn
Cái Đẹp
những quầy sách,
báo ta giăng,
ngời nét mực
Đất và Màu Da ơi! con đã nghe!
Tổ Quốc ơi! con đã nghe!
đâu chỉ là cơn gió thoảng thời học trò
thoáng chốc
mãi đậm thêm trong ta Tổ Quốc
mảnh đất quý yêu, màu da vàng sáng rực
bao năm qua, bao năm qua
bị huyễn hoặc rồi tự mình huyễn hoặc!
phải cất cao thơ như ngọn đuốc
chiến lũy của thơ muôn đời là Sự Thật
đến bao giờ? đến bao giờ?
có lẽ nào lìa xa Tổ Quốc
để chọn quê chung là Trái Đất?
ở nơi đâu, dù ở nơi đâu
Tổ Quốc vẫn trong lòng da diết đớn đau!
ôi Tổ Quốc! Đất và Màu Da!
chọn lựa nào cũng cam đành mất mát
có phải tự do dân chủ là đối lập?
vinh danh muôn đời thống nhất và đối lập (*)
tại sao cần đối lập?
phải chăng ảo vọng của bao người
bị bức bách?
lũ kên kên nào còn lượn lờ
quanh Tổ Quốc chúng ta?
ôi Tự Do, Độc Lập
đến bao giờ?
18.10.1988 (**)
(*) Lưỡng đảng đối lập có chung một lập trường giai cấp (hoặc tư sản, hoặc vô sản) mãi mãi vẫn là cơ chế dân chủ, nhưng đó không phải là cơ chế dân chủ nhất. Ở các nước thuộc loại lớn về lãnh thổ, "siêu cường" về kinh tế, công nghệ, không sợ nạn ngoại xâm, chỉ khi thực thi cơ chế đa đảng đối lập, chấp nhận mọi lập trường giai cấp, ý hệ, mới thực sự tương xứng với tầm vóc. Nếu không, sẽ bị quy vào loại "to xác, nhưng trình độ dân chủ thiểu năng". Còn ở các nước nhỏ và chưa giàu mạnh, có lẽ cơ chế lưỡng đảng đối lập trong tính thống nhất về lập trường giai cấp, dân tộc như trên là thích hợp. Chuyên chế độc đảng chỉ dẫn đến trì trệ về trí tuệ, khốn khổ về vật chất và cuối cùng là sụp đổ như một tất yếu (Nga - Liên Xô là một cảnh báo nhãn tiền). Nhưng các nuớc nhỏ vẫn còn một âu lo lớn: nạn đế quốc, thực dân, bá quyền vàng hoặc đỏ xâm lược...
(**) Có lẽ cũng cần viết thêm một ghi chú nhỏ: Trong bài thơ này, có những tháng năm qua khứ được hồi tưởng lại… Tuy nhiên, cuộc sống của nhiều người, trong hiện tại, có khi không còn như những ngày xa xưa ấy.
(Bổ sung: 3-2006).
TẬP QUÂN SỰ
bước đều qua tháng bảy
giậm gót chân rập ràng
hiểu núi rừng năm ấy
đỉnh trời sao dọc ngang.
1977
BÀI THƠ ĐÔNG HÀ
dẫu nơi này tuổi nhỏ đã đi qua
(ơi những dốc, những dãy nhà chênh vênh
và gió)
vẫn không biết nói thế này
có vội vàng không nữa
tôi yêu Đông Hà
đất đỏ, sao quá đỗi ruột rà
màu đất ấy thắm chân tôi thơ dại
sớm về đây, gió thổi bồi hồi biết mấy
tôi đi mê mải giữa Đông Hà suốt sáng hôm qua
chẳng bàng hoàng đâu. Tất cả đã khác xa
bom đánh nát Đông Hà xưa trong trí nhớ
vẫn tốt tươi những gì không thể:
màu đất đỏ nồng nàn, niềm tin yêu
thiết tha
tôi muốn hát thì thầm cho Đông Hà nghe
và kịp mỉm cười bâng khuâng (đã trải
mùa đau xót!)
sớm nay, giữa bộn bề công việc
Đông Hà và tôi đầy ắp trong nhau
Đông Hà lên đường bỏ lại phía sau
bao đổ nát đau thương, bao chiều gió
rì rào lau dại
ngói đỏ tầng cao, công trường, tàu phà...
Sáng mùa xây dựng mới
Đông Hà thắp giữa quyết tâm mình
ngọn đuốc hôm nay
cầu tàu cho tôi ngọn gió thổi dài
trải trên dòng sông, xanh tràn ra cửa biển
lòng vui xa khơi, hàng tươi mặt bến
tôi đứng rộn ràng, tàu đứng đợi, không yên
máy kéo ra vào xí nghiệp, nghiêng nghiêng
sườn dốc thoải, bánh xe rung giữa đồi dương
gió biếc
giữa màu sắn xanh, dọc ngang đường hào,
cho suối chảy ngầm trong ống nước
ngồi trước lán tranh này, tôi mở trang
quy hoạch tương lai
bưu cục chúng mình đây, trên đỉnh nắng đang xây
nơi xích lại những miền đất xa, ủ nồng
lời tình tự
nhà máy điện lớn hơn với bao đường phố nữa
sẽ tỏa rộng đường dây
cho chim đậu giữa đồng xanh
mặt kính cửa hàng thêm nắng sáng long lanh
cửa rừng sẽ tuôn ra cho xã viên
từng thác gỗ...
yêu lắm những gì còn phôi thai,
những gì đã có
những lưng áo xanh phai bạc, ướt đầm
trên sườn đồi hôm nay
vẫn đơn sơ lán trại công nhân
(khi nơi-của-mọi-người đã khang trang
gạch hồng ngói mới)
hạnh phúc chung đã về
thì vui riêng sẽ tới -
hồi kẻng vào ca rộn rã nói cười
tôi nghe, Đông Hà ơi
nghe tiếng hát học trò, nghe trái tim
Đông Hà náo nức
tiếng hát hồng trời mơ ước
tôi nghe, giữa vùng đất rạng ngời
sớm nay, sân trường mở sáng chân trời
ở đấy các em sẽ nâng cao vầng hạnh phúc
ánh nắng chan hòa Đất Nước
có đóa hoa đỏ thắm Đông Hà.
1978
SÁNG THÁNG GIÊNG Ở GÒ ĐỐNG ĐA
1
lặng mình trước tượng đài Quang Trung
gò Đống Đa dưới chân tôi!
Nắng tỏa
từ quản bút lưng trâu và chú bé Hồ Thơm (1)
trên đèo núi chập chùng
từ thanh gươm Nguyễn Huệ Tây Sơn
nghe sử thi thắp tim mình chói lóa
2
ông cha vào khai khẩn đất phương nam
mãi xót lòng nỗi cằn cỗi Nghệ An
phải đổi họ lấy chút yên thân nơi xứ lạ
vua, và hai chúa hai Đàng
Đất nước nát tan
đành dựng cờ đào trên rối bời tàn phá
với thanh gươm nghĩa cả
3
lần đầu tiên ra đây đến ngồi trên ghế đá
tôi ngẩng mặt trên bàn đá
đọc lời hịch hào hùng chói ngời dân dã
chạm lên tảng đá
sáng rọi nghìn sau
ngước nhìn tượng đài Ông cao vút trời sâu
mắt Quang Trung
nhìn tận Cửu Long
- lũ lũ đàn đàn quân Xiêm tan rã - sạch làu!
mắt Quang Trung
vượt qua gò đất chiến công
- một núi xác Tàu -
tầm kế sách vượt bao triều vua vương giả
4
sao để mãi hồn dân tộc bao đời đành sáng
ngời trong văn tự lạ!
bắt con Trời Càn Long đầu gật mày chau
Quang Trung lấy lại Lưỡng Quảng nghìn xưa
bằng hào quang và một cỗ cau trầu!
(ôi lịch sử loài người!
những dân tộc
những quốc gia
dồn đuổi nuốt tươi nhau!)
5
thực dân Phương Tây từ lâu
dò la Bắc - Nam
run rẩy đưa cao thập giá
run rẩy đưa cao nhánh lá (2)
kèm bản đồ
giấu trong hàng hóa:
thư về nước, ngẩn ngơ, kinh hoàng
phơi lòng dạ!
ngợi ca Át-ti-la Phương Nam (3)
nét chữ bần thần nghiêng ngả
nguyện cầu!
6
danh sĩ Bắc Hà tâm phục đến chầu (4)
Hoàng đế Phương Nam, áo vải,
da sạm nâu
rất mưu lược
sao hiền hòa chân thành quá
rất bản lĩnh
và ân tình đến lạ
7
lặng mình trước tượng đài Quang Trung
hiểu tuổi sống của thiên tài Tây Sơn
thắp sức sống nhân dân
sáng bừng vận nước
nhưng Ai tư vãn muôn đời còn đau! (5)
đau đến muôn trùng!
8
tôi ngồi trên ghế đục ra từ núi đá
ngẩng mặt trên bàn đục ra từ núi đá
trên xác thù bạo ngược
gò Đống Đa
ngập nắng sáng, tháng giêng
lá xanh, xanh mướt
thầm hát câu thơ về người áo vải anh hùng
cảm khái dân tộc mình dựng lên tầm cao Tổ quốc
phải bằng sông máu núi xương
và gò xác giặc điên khùng!
ôi, gò xác này chỉ là biểu trưng
một tầm cao, cao thẳm, không biết
lấy gì đo được!
9
đâu rồi đền miếu, bát hương thuở trước
đã thắng giặc bằng căm thù
và bằng cả bao dung!
hương khói
tỏa lên dăm nét chữ chỉ đích danh:
lũ rối sắt máu, từ tim đen Càn Long
luôn chờ cớ xua quân cướp nước!
ôi lịch sử
nhân và nghĩa
cho vô cùng!
10
Quang Trung
người dựng mùa xuân
trên nỗi tan hoang hai miền Tổ quốc
bằng muôn triệu kiếm cung
trổ lên từ đồng Nam ruộng Bắc
bằng thanh gươm lóe thép Tây Sơn
bằng mùa mai thắm tươi ra Bắc
bằng mùa đào sáng bừng vào Nam
mùa xuân nối liền
vết thương sông Gianh
hai trăm năm
đau thắt Miền Trung
11
Hồ Thơm: Nguyễn Huệ: Quang Trung!
từ Nghệ An cỗi cằn
ông cha vào phương nam khai hoang
cánh chim Phượng Hoàng
mơ về đậu đỉnh xanh núi Quyết
chỗ đòn gánh kê vai gánh trĩu mùa vàng
chín rạn và bầm huyết
phải chăng
Trung Đô (6)
chiến lược nối liền Nam - Bắc hai Đàng?
và phải chăng
lệch tình ruột thịt cố hương nên nghiêng đổ hết?
12
Quang Trung
chỉ là lực biến dịch
cho sông Gianh thôi gào thét?
để vận nước nối liền bằng thanh gươm Gia Long
cựu thần Đàng Ngoài cuồng trung giẫy chết
Nguyễn Du khóc Kiều đứt ruột đắng lòng
qua Đèo Ngang, buổi nắng tà uá rét
"quốc quốc gia gia" hoài Lê thê thiết
Bà huyện Thanh Quan
tự đục tên khỏi gia phả nhà chồng? (7) (7b)
ngỡ mình là Hán tộc Hồng Tú Toàn,
Cao Bá Quát huà theo lũ châu chấu điên ngông (8)
quyển thơ thiên tài máu bết!
Phê-rô Tạ Văn Phụng (9)
mạo danh con vua Đa-vít Viễn Đông
Kinh Thánh rao giảng ngược,
ngược ngôi sao Na-za-rét (10)
"đế quốc La Mã bên sông Hương!" - ngược lời,
lâu la hú hét -
máu chảy ngược sông Hồng!
ôi, Quang Trung! Quang Trung!
chỉ là lực biến dịch
cho sông Gianh thôi gào thét?
để Đàng Ngoài cứ mãi hoài Lê
với nỗi cuồng trung!
13
từ Hà Nội mùa xuân
ngậm ngùi tưởng tiếc
ngồi trên gò Đống Đa
trên đỉnh cao chiến công Quang Trung
nắng hồng xanh non cỏ cây tháng Tết
tôi ngước nhìn Quang Trung
Quang Trung, Quang Trung, lực biến dịch
loé chớp
lành lặn vết thương sông Gianh
nối liền non sông nối liền biển biếc
trước thanh gươm vó ngựa Gia Long
Đàng Ngoài phải chăng tự dựng mùa đông?
mùa đông lan vào Đàng Trong
trăm năm thực dân tàu đồng súng thép...
Giê-su vô can, mười chín thế kỉ Người đã chết
sao giáo đường sáng trưng
thắp bằng máu mỡ Việt?
Đàng Ngoài - Đàng Trong
bỗng chung một nỗi lạnh tê rỉ rét...
14
từ Hà Nội mùa xuân
ngậm ngùi tưởng tiếc
Quang Trung, Quang Trung
tôi chợt hiểu chút máu thái thú bao đời trong Ông
mãi vỡ mạch muôn đời trên trang sử chép
vết thương Bến Hải đã xa, xa lắc, trập trùng
tôi viết từ uẩn khúc Miền Nam,
uẩn khúc thuyền nhân:
"nội - nội phân tranh
ngoại - ngoại phân tranh"
lịch sử viết thẳng hay uốn cong?
và sao vang ra tận đây
- Hà Nội mùa xuân -
những tiếng khóc ròng?
vết thương Bến Hải
thiếu vắng một Quang Trung?
Quảng Trị quê hương
đau thương, hào hùng, quyết liệt
sao vang ra đây
câu hỏi nghẹn ngào róng riết
thiên tài Lê Duẩn là Quang Trung?
ý chí kiên cường Lê Duẩn là Gia Long? (11)
lịch sử đã lặp lại chăng?
lịch sử đã hoán vị hai Đàng?
đâu rồi bao tấm lòng đau niềm chung da diết
ai đó còn thao thức, khắc khoải, chờ mong
(ta chờ mong trái tim ta rất Việt!) ?
sông Gianh - Bến Hải, nắng nỏ, bão bùng
nỗi niềm đứt ruột Miền Trung
vết thương chưa thôi gào thét?
15
ra thăm Hà Nội, ngắm hoa đào mùa Tết
tôi mỉm cười, bâng khuâng.
Hà Nội, 05.03.1997
Tp. HCM., 20.03.1997
& 02.2004
(1) Nguyễn Huệ có tên thật là Hồ Thơm, vốn là hậu duệ của dòng họ Hồ Quý Ly (họ Hồ huyện Quỳnh Lưu, Nghệ An; về sau chuyển ra Thanh Hoá...). Hồ Quý Ly lại là hậu duệ của thái thú Hồ Hưng Dật, người thiểu số (?) Trung Hoa, sang cai trị nước ta thời Bắc thuộc. Mặc dù có gốc gác rất xa đời là người thiểu số (?) Phương Bắc (Trung Hoa), nhưng thực chất huyết thống dòng họ Hồ Thơm (Nguyễn Huệ, chi nhánh ở huyện Hưng Nguyên, Nghệ An) đã pha trộn qua mấy chục đời để trở thành huyết thống Việt. Dẫu vậy, vẫn có một bộ phận nhân dân không ủng hộ Quang Trung Nguyễn Huệ vì lẽ đó.
Có tư liệu cho rằng: Tổ tiên dăm ba đời trước của Hồ Thơm (Nguyễn Huệ) là lính thuộc quân binh họ Trịnh Đàng Ngoài. Trong một đợt giao chiến với quân Đàng Trong, người lính ấy bị bắt sống, và may thay, được chuá Nguyễn cho đưa vào Bình Định khai hoang lập ấp, rồi được phép định cư hẳn ở đấy. Từ đó, đất Tây Sơn tỉnh Bình Định có một nhánh họ Hồ vốn thuộc huyện Hưng Nguyên, tỉnh Nghệ An sinh sôi nẩy nở, nhưng lại đổi sang họ Nguyễn. Tư liệu này cần được khảo chứng thêm.
(2) Nhánh lá trong ngày lễ Phục sinh (theo sự tích lịch sử - Kinh Thánh: nhân dân Do Thái tung hô Chuá Giê-su [Jésus], hậu duệ vua Đa-vít [David]).
(3) Attila (người Hung Nô [Les Huns, Mông Cổ], 406? - 453): một danh tướng có tầm vóc thế giới, xét về mặt thiên tài quân sự. Các cố đạo Thiên Chuá giáo vừa khâm phục, vừa lo sợ trước thiên tài quân sự của Quang Trung; họ so sánh Attila với Quang Trung trong những bức thư gửi về Pháp, Tây Ban Nha...
(4) Tất nhiên vẫn có rất nhiều cựu thần vua Lê, chuá Trịnh chống đối: Phạm Thái (tác giả Sơ kính tân trang), Nguyễn Công Tấn (thân sinh Nguyễn Công Trứ)...
(5) Ai tư vãn, một bài thơ dài của Lê Ngọc Hân (công chuá nhà Lê), vợ Quang Trung, khóc thương vị vua này khi ông băng hà.
(6) Nguyễn Huệ lên ngôi hoàng đế tại Huế (lấy hiệu là Quang Trung), nhưng về sau lại có kế hoạch dời đô về nguyên quán Nghệ An. Địa điểm xây dựng kinh đô là vùng đất dưới chân núi Quyết, bên bờ sông Lam. Tên kinh đô là Phượng Hoàng Trung Đô. Tuy nhiên, kế hoạch bất thành.
(7) Xin xem chú thích (7 b).
(7b) Xin đừng hiểu Bà huyện Thanh Quan đồng cảm với những người Chăm (““chợ” mấy nhà”), khi dừng bước ở Đèo Ngang, vốn là biên giới Đại Việt – Chăm-pa thuở nào. Cũng đừng đẩy xa ý tưởng đó, rồi cho rằng, người Đàng Ngoài với người Chăm có chung một kẻ thù là các chuá Nguyễn, vua Nguyễn, khi cảm nhận hai câu luận và hai câu kết của bài “Qua Đèo Ngang”:
Nhớ nước, đau lòng con quốc quốc
Thương nhà, mỏi miệng cái gia gia
Dừng chân đứng lại: trời, non, nước
Một mảnh tình riêng, ta với ta
Đặc biệt là câu thơ “một mảnh tình riêng, ta với ta”! Ấy chỉ là cảm xúc khi chỉ còn mình đối diện với chính mình trong nỗi cô đơn. Cũng đừng đẩy xa hơn nữa ý tưởng đó, để kết luận Bà huyện Thanh Quan vốn có gốc gác là Chăm, tuy không ít người Đàng Ngoài đích thực là người Việt gốc Chăm (người Chăm phải ra Đàng Ngoài nhập cư, từ thời Lý đến thời Nguyễn*).
[* Có bao giờ họ muốn trở về Panduranga cũ
– Ninh Thuận, Bình Thuận ngày nay – ?].
Tôi nghĩ thi sĩ đài các, trang trọng rất mực trong ngôn từ thơ ca này có thể bị ám ảnh về biên giới lịch sử bởi câu sấm kí của Trạng Trình: “Hoành Sơn nhất đái vạn đại dung thân” (Đèo Ngang một dải vạn đời dung thân), khi chuá Nguyễn Hoàng đến xin gặp Trạng Trình để tham khảo ý kiến. Mặc dù trong thực tế, sông Gianh mới là biên giới Đàng Trong – Đàng Ngoài, nhưng trong tâm thức người Đàng Ngoài, Hoành Sơn (Đèo Ngang) mới là biên giới có tính lịch sử.
Phải liên hệ với các bài thơ khác của Bà huyện Thanh Quan, nhất là “Thăng Long thành hoài cổ”, khi cảm thụ “Qua Đèo Ngang”.
(8) Phong trào Thái Bình thiên quốc (bài Thanh phù Hán) ở Trung Hoa do Hồng Tú Toàn lãnh đạo; về sau biến tướng thành giặc Cờ, quấy nhiễu các tỉnh biên giới nước ta để chiếm cứ đất, xưng hùng xưng bá.
(9) Tạ Văn Phụng là một giáo dân, có tên thánh là Pierre (Phê-rô). Tuân theo lời các cố đạo, các tên thực dân Pháp, Tây Ban Nha, y mạo danh là hậu duệ vua Lê, với cái tên Lê Duy Phụng hoặc Lê Bảo Phụng. Pierre Tạ Văn Phụng gây nên một cuộc nổi loạn phản quốc, kéo dài nhiều năm, tạo thêm sức ép ở phía Bắc Kì, để triều đình Huế phải kí nhượng ước Nhâm tuất 1862, và mưu toan lập "xứ Bắc Kì thuộc Pháp "bảo hộ"". Sau khi đạt mục tiêu, thực dân, cố đạo Pháp và Tây Ban Nha liền bỏ rơi Pierre Tạ Văn Phụng! (10) Nazaret, quê hương của Chuá Jésus. Theo Kinh Thánh, lúc Đức mẹ Maria sinh ra Chuá Jésus, trên trời có xuất hiện một ngôi sao lạ. Ngôi sao này dẫn đường cho ba vị vua Trung Đông đến chầu.
(11) Không phải chỉ khi đề cập đến Gia Long (Nguyễn Ánh), mới cần nhận thức theo quan điểm lịch sử - cụ thể, nhưng không thể không nhấn mạnh như thế khi cần làm sáng tỏ, thoả đáng thêm về vấn đề này.
Chủ quyền Đất nước dưới chế độ quân chủ cũng là một hình thức quan hệ sở hữu phong kiến (Đất nước và thần dân là tài sản và tôi tớ của hoàng tộc cầm quyền, nối đời thừa kế). Do đó, Nguyễn Ánh (Gia Long) đánh đổ triều Tây Sơn (ba anh em Nguyễn Huệ và Nguyễn Quang Toản) là để giành lại cái gọi là quyền sở hữu Đất nước Đàng Trong và thần dân của dòng họ mình, và thừa kế luôn cả Đàng Ngoài mà dòng họ ông ta có công trung hưng (vai trò công thần của Nguyễn Kim). Chủ quyền Đất nước và nhân dân được xác lập theo quan hệ sở hữu phong kiến về tài sản và nô bộc là một quan niệm phản động, cực kì phản động, nếu đứng ở giác độ dân chủ để phê phán. Tuy nhiên, ở cuối thế kỉ XVIII đầu thế kỉ XIX, Nguyễn Ánh vẫn chính nghĩa theo quan niệm phong kiến! Và cũng cần khẳng định rõ: mối quan hệ giữa Nguyễn Ánh và cố đạo thực dân Pigneau de Béhaine (Bá Đa Lộc) chỉ là quan hệ lợi dụng lẫn nhau mà thôi! Sau khi nắm được ngai vàng hoàng đế, chính Gia Long (Nguyễn Ánh) đã hạn chế sự bành trướng Thiên Chúa giáo! Như thế, trên cơ sở đó, có thể có một nhận định: Quang Trung (Nguyễn Huệ) đáp ứng được yêu cầu bức thiết của lịch sử là phải thống nhất Đàng Trong - Đàng Ngoài (mặc dù công lao ấy phần nào còn bị hạn chế do tình trạng tam phân giữa ba anh em Tây Sơn). Tuy nhiên, Gia Long (Nguyễn Ánh) không phải không chính nghĩa, xét theo quan hệ sở hữu phong kiến về vương quốc, thần dân; và Gia Long còn kế thừa cả sự nghiệp thống nhất Đàng Trong - Đàng Ngoài của Quang Trung một cách tốt đẹp. Đó không phải là một nhận định "ba phải", mà xét trên cơ sở sự thật lịch sử và xét theo quan điểm cụ thể - lịch sử tiên tiến, khoa học nhất của chúng ta, trong thời đại dân chủ hiện nay. Mặc dù đối với chúng ta hiện nay, chế độ phong kiến nói chung (chứ không phải chỉ riêng triều Nguyễn) vốn đã trở nên quá lạc hậu, cực kì phản động, "một đi, không bao giờ trở lại", nhưng cũng phải công bằng, thỏa đáng trong việc nhận định lịch sử.
Nói một cách giản dị, Nguyễn Ánh không dễ dàng gì để mất vào tay Tây Sơn sự nghiệp suốt hai trăm năm của dòng họ ông ta. Đó là sự nghiệp chín chuá Nguyễn đã lãnh đạo nhân dân Đàng Trong khai phá đất phương nam, từ Phú Yên đến Cà Mau!
Cũng nói một cách giản dị, nếu lấy tiêu chí dân chủ hiện nay, nhất là dân chủ xã hội chủ nghĩa trên lĩnh vực sở hữu ruộng đất (sở hữu toàn dân hay còn gọi là công hữu), để nhận định về chế độ phong kiến quân chủ ... rồi trách cứ, thì chẳng khác nào trách cứ sao Nguyễn Du không sáng tác Truyện Kiều trên máy vi tính và phát hành trên mạng VnExpress hoặc Cinet! Nhưng có người sẽ vặn lại tôi: Đâu rồi quan điểm so sánh đồng đại? Từ năm 1848, giữa thế kỉ XIX, Karl Marx và Fridrich Engels đã xuất bản Tuyên ngôn Đảng Cộng sản kia mà! Tôi chỉ biết bảo người ấy nhìn ra thế giới ngay vào thời điểm này: Hiện còn bao nhiêu nước theo chính thể quân chủ lập hiến (lập hiến nhưng vẫn còn vua chuá!)? Còn năm 1848, cách thời điểm Gia Long lên ngôi (1802) đến bốn mươi sáu (46) năm! Nếu chọn thời điểm so sánh tương đồng, phải là 1789, năm cách mạng tư sản Pháp nổ ra và cũng là năm Quang Trung đánh tan hai mươi vạn quân Thanh, triều đại vua Lê - chuá Trịnh hoàn toàn tiêu tan; và lúc đó, Nguyễn Ánh vẫn còn trường kì chiến đấu khôi phục. Nhưng cách mạng tư sản Pháp tồn tại không bao lâu; rồi chính giai cấp phong kiến Pháp cũng xé toạc Tuyên ngôn Nhân quyền, Dân quyền 1789 * để phục hồi đế chế quân chủ! Vả lại, nên hiểu giới hạn tầm nhìn thời bấy giờ, cuối thế kỉ XVIII đến đầu thế kỉ XIX, trong điều kiện chung là thông tin liên lạc còn hạn chế. Do đó, giới hạn tầm nhìn thời bấy giờ là chỉ trong phạm vi khu vực Đông Nam Á và rộng hơn, là phạm vi châu Á... Hơn nữa, tầm nhìn còn bị quy định bởi bao nhiêu điều khác, nhất là nền tảng dân trí toàn xã hội! Hiểu như thế, mới thật là lịch sử - cụ thể. Không nên kéo lùi lịch sử hiện tại vào sự lạc hậu (tụt hậu), cũng không nên cưỡng bức lịch sử quá khứ phải thật dân chủ xã hội chủ nghĩa về quyền sở hữu Đất nước, tức là quyền làm chủ Đất nước (đúng nghĩa là dân chủ đích thực, chứ không phải trò lừa từ ngữ *)
[* Đây không phải chỗ để đề cập đến các quyền dân chủ cụ thể khác, về chính trị, xã hội, văn hoá...].
Ngoài ra, tưởng cũng cần nhắc lại một nhận định xác đáng và công bằng của nhiều nhà nghiên cứu sử học về Gia Long Nguyễn Ánh: Ông là một con người có nghị lực mạnh mẽ, vị vua sáng nghiệp từ hai bàn tay đã trắng (có khi quân lính không còn một đội, lương thực không có để dùng). Ông chỉ có một điều kiện thuận lợi, ấy là lòng trung thành của nhân dân Đàng Trong đối với các chuá Nguyễn tiền bối.
Ở chú thích này, tôi chỉ nhấn mạnh đến nghị lực mạnh mẽ hay còn gọi là đức tính kiên cường của Nguyễn Ánh, nhất là sự nghiệp thống nhất Tổ quốc, từ Nam Quan đến Cà Mau. Và khi so sánh tổng bí thư Lê Duẩn với Quang Trung, Gia Long ở ba khía cạnh đó, tôi hiểu "so sánh nào cũng có sự khập khiễng".