TỪ CÂU NÓI NGÂY THƠ CỦA CON
kính tặng o Loan của Bé
o Loan giờ ở đâu?
– ở bên Mỹ… Mỹ Chánh…
– ờ, dù xa, xa lắm
cũng gần như vậy thôi…
trăm lo toan bối rối
khi sống giữa xứ người
vẫn thương về nhà cũ
hiểu con là nguồn vui…
o xa vẫn gần thôi
bao đêm mơ của Nội
o bồng con, cười nói
như chưa hề xa xôi
o xa vẫn gần thôi
nụ cười o để lại
nụ cười ấy, o mơ
trên môi con nở mãi.
1989
LỜI THIÊNG
ngỡ lòng tan nát chai mòn
thương con ba gắng xanh non cách nhìn
tìm xem truyện cổ thần tiên
nghe con bập bẹ lời thiêng đầu đời
bà bà mẹ mẹ ba ơi
tiếng yêu thương toả sáng ngời đôi môi
bà ơi mẹ ơi ba ơi
ngọn nguồn cái đẹp cũng lời đầu tiên
theo con ra cửa, trông lên
cùng con tập nói trước thềm tương lai.
1988 – 1989
BÀI THƠ RU BÚP BÊ
cho Phú và con
chưa đầy mười tám tháng
con đã biết ru em
ngân điệu hò vạn cổ
với tay đưa rất mềm
cũng nhịp nhàng êm êm
con hò rồi con dỗ
mắt búp bê cứ mở
cho con ru, ru hoài
thơ của ba đôi bài
dăm khúc ca quê ngoại
thấm vào hồn thơ dại
giờ con ru búp bê
nội mỉm cười ngồi nghe
mẹ đứng bên nhắc khẽ
(thơ ba làm vụng thế
cũng được thành ca dao!)
con đáng yêu biết bao
với điệu ru muôn thuở
cho chiếc nôi bé nhỏ
như trôi trên vô cùng
có chi là lạ lùng
con chưa tròn giọng nói
sao tiếng ru nguồn cội
cứ hồn nhiên à ơi
mấy phần tâm hồn người
đã tượng từ lòng mẹ
mấy phần xa hơn thế
tự nghìn xưa, bao đời
cứ ru đi, à ơi
đến búp bê bằng nhựa
cũng có tim rực lửa
toả chất thơ tình người
cứ ru đi, à ơi
con ru đi, à ơi…
1990
CÒN LẠI MỘT CHÚT HOANG TƯỞNG
mẹ đi khắp chợ rồi
chẳng nơi nào có cả
phố phường thì xa quá
quê hương đủ thứ nghèo
ba dành một buổi chiều
đạp xe đi Thành Cổ
tìm hoài mới ra chữ
mua về cho con chơi
mừng quá thấy con cười
nhìn hai tư chữ cái
nhưng rồi, không thích mấy?
hay chữ ít sắc màu?
ba chẳng biết làm sao!
hay tuổi con quá nhỏ
chưa hiểu trong chừng đó
là tất cả trên đời?
hay chữ mất thiêng rồi
chữ khô khan? léo lắt?
chỉ thích chơi với đất
đất chân thật thôi sao?
hay ba vẫn điên đầu
cứ như còn hoang tưởng?
chuyện nào có chi đâu
mà thắt lòng đau đớn!
1990
ĐÁNH THỨC
giai điệu nào quen quá
ở trong tôi bao giờ
hay tự thuở làm thơ
thương mắt ai buốt giá
hay rơi vào giấc mơ
một đêm trong quán lạ
hay vẳng từ hoa lá
chiều cao nguyên, tình cờ
từ ảo tượng run mờ
của cơn điên vật vã…
tôi ngồi nghe, hoá đá
tiếng đàn ai, không ngờ…
1990
NƠI ĐÂY LÀ NƠI ĐÂU
kính tặng BV. Tâm thần Hoà Khánh,
84 và 85 (*)
chung quanh, thành và rào
cửa sắt lạnh lùng đóng
bên ngoài kia, cõi sống
còn nơi đây là đâu?
thần kinh ai rối nhàu
ảo giác ai lạnh ớn
hoang tưởng ai rùng rợn
địa ngục có thật sao?
có thật tự trời cao
những thiên thần áo trắng
đã xuống trần thầm lặng
bên người điên khổ đau?
nơi đây là nơi đâu?
không phải là cõi chết
không phải điên là hết
không phải không phải đâu…
1990
Cước chú của bài Nơi đây là nơi đâu:
(*) Đây là một bài trong chùm thơ viết về những bệnh nhân tâm thần sau vài chuyến “bị đi thực tế” (!) của tác giả. Về năm, chính xác hơn là 1983 và 1984.
NGHĨ VỀ “KHÁT VỌNG SỐNG”,
TẠ ƠN ANH EM VAN GỐC (*)
1.
bàn tay nâng chiếc cọ
hoá chồi búp tươi non
khung vải thành tâm hồn
hoa sáng bừng ở đó
ông vẽ lại phần số
từ kiếp sống tủi hờn
giờ hướng dương rực rỡ
vàng rực trái đất tròn
ôi thằng điên áo sờn
bị nhạo báng, chối bỏ
“khát vọng sống” cứ còn
ngờ đâu, đến muôn thuở
Têô (**) – trái tim đỏ
trên vòm trời chon von
để cái đẹp bung nở
cõi người ta đẹp hơn
2.
mẹ và chị và vợ
đời tôi có cả con…
“bệnh” hoang tưởng cuồng nộ
dù dịu đi từng cơn…
tận cùng đau lẫn khổ
chẳng đành chịu héo hon
tôi cũng chỉ là cỏ
trên đất thơ xói mòn!
mươi năm sau, nấm mộ
cỏ có được xanh rờn
kẻ chiến bại mệnh số
mộng sáng tạo, vùi chôn?
quên hết, sao quên ơn?
đời cho bao mối nợ
quên hết, sao quên ơn?
chết, hai mắt vẫn mở?
1990
Cước chú của bài Nghĩ về “khát vọng sống”, tạ ơn anh em Van Gốc:
(*) Van Gogh, hoạ sĩ Hà Lan.
(**) Théo, anh trai của Van Gogh.
TẠ ƠN THẠCH HÃN
mồ hôi bao đời đã chảy thành sông
chảy ròng ròng giữa thiên nhiên nghiệt ngã
chảy tự chất người nghìn năm cứng bền như đá
đá đổ mồ hôi ngỡ mặn xót lòng
ơi Thạch Hãn Thạch Hãn
giữa trưa này, đi qua sông ngập nắng
sông mồ hôi kia vẫn chảy ròng ròng
tôi hiểu thêm chất triết chất thơ
sâu lắng mênh mông
đã bừng sáng vòm trời Quảng Trị!
Thạch Hãn ơi
tên sông có phải cha ông từng ngẫm nghĩ
hay tứ thơ hồn nhiên
chợt vút lên
từ chất xam chói loà chất đá
từ chất sống ngời ngời mồ hôi ròng rã?
qua bao thời
đá đổ mồ hôi
giữa nắng gió cháy nồng
giữa bão mưa buốt giá
và bây giờ, Thạch Hãn ơi
chất đá chất người chất thơ chất triết
sẽ chảy thắm những dòng chữ viết
như bao đường kênh, hoà thấm mạch đời
chất Thạch Hãn tuyệt vời
cho cả những kiếp người vật vã…
từ xa xưa, Thạch Hãn Thạch Hãn ơi
với thiên nhiên nghiệt ngã
đá đổ mồ hôi
và chẳng nghiệt ngã huỷ diệt nào
khiến đá chảy ròng
thành sông nước mắt
dù ngầu máu, đặc lềnh những xác
dù thuyền lúa thuyền hoa chìm đắm nghẹn dòng
dòng sống lại trôi
dòng sáng tạo lại trôi
sông mồ hôi lại thẳm sâu cất lên câu hát
trĩu nặng, bát ngát…
lặng thầm, cao trong…
mang nỗi đau hoá đá giữa lòng
nhưng chất Quảng Trị trong mình
có chút nào không
cùng gió mới, giữa trưa này, qua sông
hồn Thạch Hãn bảo tôi mỉm cười ngẩng mặt (*).
1990
Cước chú của bài Tạ ơn Thạch Hãn:
(*) Trong một số thư tịch, như Ô Châu cận lục của Dương Văn An, hai chữ Thạch Hãn, thường được viết với mặt chữ Hán có nghĩa là sự chặn lại, cản lại của đá [đối với dòng chảy của sông, làm sông chảy lệch dòng hoặc chảy xiết]. Tuy nhiên, Thạch Hãn với ý nghĩa mồ hôi đá vẫn được nhiều người mặc nhiên cảm nhận và đinh ninh với ý nghĩa triết luận như thế. Tôi thiên về ý nghĩa thứ hai như tứ thơ đã thể hiện. Ở đây không phải và vấn đề khoa học hay không.
(Chú thích năm 2005. TXA.)
CHO MÌNH VÀ CHO NHAU
Tất Đạt Đa phải rời cung thành Phật
bởi chỉ ngai vàng đâu cứu được con người
nhập thân bao nỗi khổ buồn
thành từng pho tượng qua hồn nghệ nhân
muôn đời tố cáo trầm luân…
tượng còn nguyên đó, vô ngần đau thương!
cũng như La Hán Tây Phương
thiền sư ra trận, “xuống đường” (*) đó thôi
tiếng chuông ngân tự cõi đời
đau đời, đời ngộ nụ cười Phật hơn!
và bao người giữa đời thường
lòng nhân văn chẳng trầm hương siêu hình
không nương tựa những câu kinh…
vẫn chiêm ngưỡng tượng cho mình cho nhau
nhà thơ hôm nay mai sau
dù vơi gánh nặng khổ đau thuở nào…
xin tiếng chuông sâu và cao
vang từ gan ruột, vọng vào trang thơ…
1985 – 1990
Cước chú của bài Cho mình và cho nhau:
(*) “Xuống đường”: biểu tình phản đối trên đường phố.
(Chú thích, 01. 3. 2005)
TRỐN VÀ GẶP
từng mẩu nhạc đứt nối như vọng về
từ cõi nào buồn thảm
những giọt cà phê đen hơn bao giờ
tìm thư giãn bên bờ sông
gió bất ngờ đắng chát
tôi ra đây thêm khùng dại điên rồ
gầm cầu kia, thành nơi che nắng che mưa
không che nổi những xác người đứng ngồi
khốn khổ
sống không cửa không nhà hoá hoang dã cổ sơ
lên ba rầu rĩ già nua, ba mươi ngẩn ngơ trẻ nhỏ
đất nước nghèo nhưng vẫn còn đất ở
cao nguyên xanh vẫn chờ người?
đã trôi giạt đến đâu,
sao lại về dưới gầm cầu thành phố
bán vé rủi may, làm điếm, bụi đời,
vắt khô nước mắt mồ hôi!
ra ngồi đây tìm chút thảnh thơi
chút xanh trong của trời và nước
cũng chỉ là người,
tôi chạy trốn khổ đau tâm hồn và thể xác
là người, tôi cũng thèm hồng hào
sung sướng yên vui
ai tìm chi địa ngục dưới bánh xe và chân người
địa ngục trong tia nhìn thương hại
địa ngục nơi bàn tay xua đuổi
địa ngục từ tiếng khóc đòi ăn giữa cổ họng há to
rẫy nương xanh có còn tươi đẹp giấc mơ
nếp tranh vàng mảnh vườn hoa trái
có phải quỷ ma đâu sao sợ hãi thiên đường?
thiên đường đơn sơ vì ai không dựng nổi?
trời nước rợn buồn nhợt tái
nhạc rối bời xáo trộn quặn lòng
tôi thảng thốt đến gần, như kẻ vô công điên dại
những đôi mắt lạnh tanh ơi,
cho tôi được chuyện trò không?
choáng váng trước be cầu
hiện lên
nét chữ buốt lòng
nhoà gạch nhoà than, lại bằng sơn, khắc đậm
đập, đập vào trán quay cuồng: VÌ HOÀN CẢNH…
hình như tôi chắp tay, đầu rũ xuống?
khóc, cười khan?
1991
DÙ SAO
đã riêng rồi một đời riêng
nỗi điên đảo bớt đảo điên bao giờ
mùa đông rực nắng tình cờ
thấy em đứng đó, ngó lơ, mắt loà
đã xa rồi một đời xa
vẫn không nhạt nổi em và ngày xưa
thời tôi vừa tạnh bão mưa
tim ta mê muội bỏ bùa cho nhau
đã đau rồi một đời đau
cũng đành là vậy, bỗng đâu không đành?
em bồng con dưới cây xanh
đi qua lại muốn đi quanh, ghé chào… (!).
1991
THƠ Ở NHÀ THƯƠNG
tôi bước vào cõi khổ kiếp người
– nhưng đây là nhà thương (*),
nhà thương – tôi thầm nhắc
với “bệnh điên” và “bệnh mắt” (**)
tôi tỉnh táo nhìn ra phần kia – một góc tối
của đời
bằng nỗi đau tôi thấm thía nỗi đau
tiếng rên la quằn quại hình hài co quắp
tủi nhục điên cuồng bật lên chuỗi cười sằng sặc…
hi vọng tuyệt vọng dìm xô nhau,
tự bể khổ tuôn trào
bệnh tật có từ lâu cái chết có từ lâu
là mặt kia của sự sống
vẫn mong người đừng gieo thêm cho người
thương đau
khiến lẽ tự nhiên càng thê thảm
từ cõi khổ của kiếp người,
bao đứa trẻ sinh ra khoẻ mạnh
sự sống sinh ra từ cõi đau này!
chất người sáng tươi từ cõi buồn lạnh xám
trí tuệ và tình thương, đẹp quá nơi đây
đừng để luật nghiệt ngã của tự nhiên càng thê thảm
người đừng gieo cho người thêm vết thương đau
còn nơi đây là nhà thương – nhà của
yêu thương ? (*) – tôi thầm nhắc
được thấm ơn đời, tôi nào oán hận gì đâu!
1991
Cước chú của bài Thơ ở nhà thương:
(*) Nhà thương: nhà đau, nhà bệnh (bệnh viện).
(**) “Bệnh điên”, “bệnh mắt”, được đặt trong ngoặc kép. Đây chỉ là một cách nói tu từ (mĩ từ pháp).
(Chú thích ngày 03. 3. 2005)
CẢM NHẬN BÊN DÒNG SÔNG
lang thang dọc cửa sông khuya
tâm hồn đất nước hiện về như mơ
suốt ngày ngây dại sững sờ
dòng sông bỗng hoá dòng thơ chiều này.
I. CỬA VIỆT
1
sông nơi cửa sóng muôn phương
lắng niềm chớp bể mưa nguồn thẳm sâu
nắng phơi mái rạ buồm nâu
dáng ai tóc trắng ngẩng cao sáng ngời
bập bùng bếp lửa bừng soi
bên đàn cháu nhỏ, nụ cười an nhiên
như trăm truyện cổ thần tiên
nghìn câu dân dã sáng lên nụ cười
dáng ai in giữa biển trời
nghìn-năm đọng ở nụ-cười-trẻ-thơ
trời hồn nhiên đến không ngờ
ở nơi nguồn thẳm chạm bờ biển sâu
ở nơi sóng gió lao đao
trời xanh như lọc từ bao nỗi niềm
II. HỒN ĐẤT
2
lẽ đời, sinh – tử, buồn tênh
gậy thần chỉ sáng cái nhìn mù đau
(không có gì tan mất đâu
thấy trong gỗ mục nguyên màu chồi tươi
bàn tay in dấu vào đời
cho nghìn xưa sống với người nghìn sau)
với niềm khát vọng thẳm sâu
người mang sách ước đọc vào tự nhiên
con người bỗng hoá thần tiên
bởi rất người, rất tự tin chính mình
như từ trong thuở u minh
cánh tay người muốn nâng lên vòm trời
là hoa phải sáng nụ cười
người ta – hoa của đất trời – sáng lên!
3
trước giặc thu vẫn điềm nhiên
uy rồng ở nụ cười tiên Diên Hồng
từ dân, Gióng đẹp lạ lùng
lòng dân – trời rộng – anh hùng bay lên
hoà bình xanh ngát mông mênh –
tiếng đàn cho giặc trái tim con người
nồi cơm độ lượng không vơi
Thạch Sanh – rạng rỡ chất-người-rồng-tiên!
4
bài ca sức sống Kẻ Diên
hát trong tuyệt vọng, sáng thêm cách nhìn
oán thù, vẫn sẵn ngọt lành
bát nước đổ xuống, bưng lên, lại đầy
nhân tình, cười ấm lòng say
rất nhân hậu, nhẹ nhàng thay nụ cười
buồn, vui, cũng miếng trầu tươi
bâng khuâng thắm thiết hồng đôi môi người
5
trước trò hợm của trêu đời
trẻ thơ biết giá nụ cười, Bờm ơi!
6
Ba Phi cười rộng đất trời
trăm câu chuyện trạng cho người người hơn
cho loài chuột ngự ghế son
ngậm danh thiếp chạy đuôi cong trăm vùng
lòng thương trải đến muôn trùng
bia căm ghét cũng chập chùng nhân gian
khổ, nên cười lộng, cười vang
cười ngăn nước mắt hai hàng rưng rưng
7
cơ chi nắng sáng mọi hồn
có đâu Thị Kính ôm con trước chùa
đời đuổi xua, đạo đuổi xua
biết đâu đất sống, mưa lùa oan khiên!
Xuý Vân ơi, đời sáng lên
đời vui, đâu phải giả điên giữa đời
khát khao hạnh phúc con người
ngán lòng khô khốc, nhầm lời dối gian
có cần chi nắm cơm vàng
nỗi niềm bi đát chưa tan giữa dòng
còn gì để chọn bên sông
mang mang nước chảy, ròng ròng lệ trôi
thân bằng cuộn lá chợ-người
buộc hờ mà siết vòng đời xót xa
“đau đớn thay phận đàn bà”
bao ngâm khúc cũng nấc oà đàn môi
môi cười ấm giọt lệ rơi?
sum vầy? oan rửa? điên đời vẫn điên?!
ước ao mùa tốt xanh chiêm
giọt mồ hôi đổ mới nên hạt vàng
uất ức, giẫm nát tan hoang
trong tha hoá, nghèo gây oan cho nghèo
gặt rồi còn được bao nhiêu
ao khuya bắt ốc mò nghêu qua thời
đêm, còn cúi mặt dưới trời
ruộng giăng xiềng xích, làm người được đâu
“đòn tre chín rạn vai đau”
con đường lẩn quẩn nối nhau gánh gồng
“cái cò cái vạc cái nông...”
sợ dòng nước đục đau lòng cò con!
đành mong nghiệp báo xoay tròn
cơ chi thoát kiếp ngay trong một đời
thị vàng, quả thị vàng ơi
bao nhiêu cô Tấm mỉm cười, vời trông...
III. HỒN BÚT
8 thiền
xuân tàn, thân bệnh...
Vô thường!
cành mai sức sống nở bừng sân đêm
mọc từ khổ sợ lo phiền
đoá sen thanh tịnh nở trên lửa hừng
chiều thôn dã khói trầm hương
theo kinh siêu thoát như sương thấm lòng
bụt là bụt của ước mong
nụ cười toả sáng bếp hồng chiều hôm
9
Nguyễn Trãi
lắng mình, nghe tiếng non sông
đời bao bước ngoặt, tấc lòng sáng soi
gươm nhân nghĩa, giặc tan rồi
tự do, thông vút, máu rơi, đỏ cành!
vẫn lồng lộng ánh trăng thanh
nụ cười ưu ái, ngời xanh dáng tùng
10
Nguyễn Bỉnh Khiêm
lòng thênh thang, bước ung dung
vào đời, ẩn giữa triều cung với đời
chốn lao xao, mây nhẹ trôi
vẫn làn mây trắng bên trời quê xa
ra về, thơ vẫn ngâm nga
ngỡ là mây, hay mây là mình đây
hoà vào trời đất cỏ cây
ta trong mình, thiên nhiên này trong ta
tìm trong sắc nắng hương hoa
mùa nuôi sống với tinh hoa của mùa
càng thương đồng ruộng xác xơ
ghét loài cắn phá nên thơ vẫn nồng
cửa đời có một khoảng không
có khoảng không mới có khung cửa đời
chí vô vi như nắng trời
mong dân tự sáng cuộc đời, đời vui
lập am, ẩn một nụ cười
không quên chuẩn bị cho đời tương lai
niềm thơ dân dã không phai
tứ thơ mây trắng bay hoài đầu non
11
Nguyễn Du và Truyện Kiều
dẫu đau tiếng khóc oan hồn
dẫu đời quặn thắt đoạn trường tiếng kêu
nụ cười đọng cuối dòng Kiều
trong như ngấn nắng tuôn theo mắt người
“cuộc đời đến thế thì thôi”
cố tìm chút nắng cho đời trấn an
thương sao
ánh mắt lạc quan
nhoà trong sương-khói-chữ-tâm
nghẹn lòng
thương sao trang giấy chập chùng
thương dòng mực chảy lạnh nguồn xưa sau
kiếp người thê thiết đớn đau
những điều trông thấy đọng sâu nỗi niềm
thương ai se nắng trong đêm
gắng hừng nét mực, bấc đèn chơi vơi...
mắt nhìn thấu suốt nghìn đời
rưng rưng lấp loá nắng ngời trên nghiên...
cách chi cho nắng hồng thêm
mạch đời nào phải đứng yên cho đời...
thương ai trắng tóc ba mươi
khóc Kiều cười được với môi úa tàn...
người đến sau ba trăm năm
biết ai nhớ lại khóc thầm ai không?
đoạn trường sổ lệ ứa ròng
vua quan khơi mãi bao dòng đau thương
làm sao xoá lấp Tiền Đường
chảy mê tiềm thức tự nguồn trời xa
sao người thêm cõi người ta
nâng cành hoa gãy, giữ hoa bao vùng
khi Kiều mang phận đời chung
trỏ gươm phán xét, nắng hồng thật hơn!...
ngước lên Hồng Lĩnh chon von
cồn hoang, phiến đá trắng mòn, mồ chôn!
12
Nguyễn Đình Chiểu
phương nam! rời rã, mỏi mòn
đã mất mẹ, nước có còn, nước ơi
có đôi mắt cũng mù rồi...
vượt qua số phận, chân người cứng thêm!
ước mơ – ngọn lửa bùng lên
nung rèn gươm bút Vân Tiên giữa đời
từng đơn thuốc ấm tình người
với quê hương lại rạng ngời trái tim
đuốc nghĩa quân sáng niềm tin
từ trong dân dã, cái nhìn sáng hơn?
13
Nguyễn Văn Tường – Tôn Thất Thuyết
Dụ Cần vương dậy Trường Sơn
Giải Triều, trung nghĩa, tờ son gửi về
Bình Tây sát tả-tà-mê
cho Tân Sở – Huế tư bề hoa giăng
lễ tần viết sắc “hoà” ban
Tôn Thuyết chiến để Nguyễn Văn Tường đàm
Pháp tung cáo trạng bắc – nam
lưu đày Kì Vĩ, chết thầm đảo xa
súng rền, khâm sứ bôi nhoà
hòm tù đỏ, Hạnh Thục ca hoen vàng
vè Thất thủ giữa dân gian
giọng run lệch bởi chuông vang giáo đường
thơ Nguyễn Thượng Hiền buốt sương
thương thái phó, ngó sen vương, dặm về (*)
14
Nguyễn Khuyến – Trần Tế Xương
bơ vơ, về với làng quê
nụ cười Yên Đổ thoáng nghe thu buồn:
“cờ dở cuộc, bạc chạy lường”
quốc kêu khuya vắng máu tuôn thấm lòng...
rất riêng, vẫn một nguồn sông
chút tình non nước vọng hồn nước non
trách mình chi, buổi hoàng hôn
chao ơi, phỗng đá vẫn còn đó đây
lửa bùng, tắt nghẹn, đêm dài
mưa đời vây bủa như dây trói lòng
niềm đau buốt xót tận hồn
Tú Xương bật tiếng cười giòn, ngẩn ngơ
lạc đường, ngóng đến bao giờ
giật mình, lạnh tiếng gọi đò, đêm khuya
15
Phan Bội Châu – Mai Lão Bạng
mắc mưu Hữu Độ bùa mê
Khang, Lương (Đại Hán!), xoá thề Cần vương
Duy tân, theo Nhật, nghẹn đường
súng gươm Quang phục, tự cường, khôn nguôi
Mai Lão Bạng sống bên Người
sách kia ai sửa?!
Sai lời sắt son! (**)
gót chân ngang dọc chưa mòn
mắt sương Bến Ngự vẫn còn ngóng trông
xa xa một ngọn cờ hồng
nụ cười hi vọng ấm dòng sông Hương
16
lãng mạn thoát li
và cách mạng hiện thực
nát tan phân rã loạn cuồng
sương mù mịt vẫn mịt mùng bủa giăng
nụ cười nở sáng lòng dân
còn ai chưa tỉnh mà nâng lòng mình
thả đời trôi nổi lênh đênh
mờ mờ nhân ảnh in quanh lệ buồn
giọt nước mắt, trời tang thương
khác chi trái đất quay cuồng trong đêm
thuế máu sôi trào đất đen
sóng hồng vỗ gọi bao triền đá mê
bài ca cách mạng còn kia
ánh sao từ ấy, sương khuya, soi đường
vẫn chia dòng nước sông Thương
ngậm ngùi giấc mộng bình thường, rưng rưng
trăm cơn gió lốc mịt mùng
nghìn luồng gió xoáy không ngừng trong tim
còn ai ngơ ngác kiếm tìm
trong quằn quại, mắt ngợp nhìn hư không
trăng! trăng! trăng! trăng não nùng
hồn ai ớn lạnh sặc từng ngụm trăng
nhớ sao trưa nắng chang chang
bóng cô gánh thóc rực vàng đường thôn
“Cha! sao Cha đành bỏ con”
những mong sống lại tâm hồn Gái quê
xác thân mục rữa sần tê
nhớ ơi thôn Vĩ sao về mà thăm
nến lung linh huệ trắng ngần
trong ảo giác trăng chợt gần chợt xa
ôi vầng trăng Ma-ri-a
sáng như viên thuốc sáng loà hư vô
đức tin nghiệp chướng ngây ngô
niềm mất nước hoá giấc mơ kinh hoàng
thơ ai trên gạch tháp Chàm
mười bảy tuổi, vội Điêu tàn tóc xanh
bóng ma gào khóc chiến tranh
đau trong đau, đã kết thành, triệu năm
17
vết thương Bến Hải (1954 – 1975)
và Miền Nam
ôi Ma-ri-a Tố Chân
nắng hoà bình ấm khăn quàng yêu thương
Nhất Chi Mai – đuốc soi đường
cành hoa sức sống sáng bừng tự do
máu loang ngực áo học trò
mặt đường khát vọng rực bờ sông xanh
khúc da vàng, lửa mong manh
khói trời ngơ ngác toả thành nhạc kinh
hoa vô thường, sương lung linh
theo hương tìm cõi yên bình cho nhau
mây thênh thang giữa trời cao
lạc vào mộng tưởng, chìm sâu sông buồn
bao nước mắt, bao mảnh gương
ai đem ghép lại soi khuôn mặt mình
mong sao gương vỡ lại lành
nụ cười thêm sáng dưới vành trăng thiêng
18
hình tượng Mẹ Suốt
quãng đời cay đắng lênh đênh
lắng sâu mặt nước ngày đêm đưa đò
mái chèo mẹ Suốt nối bờ
đưa quân đi tự nghìn xưa đưa vào
mẹ cười sáng mỗi ngôi sao
sáng trên vầng trán sáng vào nước non
sao bay đỉnh gió Sài Gòn
có về soi lại tấm lòng mẹ không
IV. NỤ CƯỜI
19
sông nơi cửa sóng muôn phương
lắng niềm chớp bể mưa nguồn, chứa chan
giữa nơi lốc bão nghìn năm
lại làm lốc lặng bão tan cho người
và người thơ – ngọn thu lôi
nhận bao sấm sét giữa trời thương đau
dẫn truyền xuống tận đất sâu
mạch đời hoá giải biết bao nỗi đời
lọc từ nghìn thuở muôn nơi
lắng sâu toả rộng vòm trời bình yên
đọng thành nguồn sáng trong tim
trái tim đằm thắm hồng lên nụ cười
dẫu đi cuối đất cùng trời
trong lòng đã có nụ cười an nhiên
nghìn xưa còn đó hồn thiêng
phơ phơ tóc trắng bao miền nhân gian
nụ cười tự bốn nghìn năm
rạng ngời bản lĩnh lương tâm giữa đời
sẽ qua đi mọi rối bời
để thêm thanh thản nụ cười thẳm sâu! (***).
1985
Bên dòng sông Bến Hải, Do Linh (Gio Linh) và tại đình làng Kẻ Diên, Hải Lăng, tỉnh Quảng Trị;
Kỉ niệm lần thứ 100 Ngày Kinh đô quật khởi (1885 – 1985), và lần thứ 10 Ngày Giải phóng Miền Nam, thống nhất Đất nước (1975 – 1985).
Cước chú của bài Cảm nhận bên dòng sông:
(*) 14 câu khúc 13 và 6 câu khúc 15 mới được bổ sung thêm, trong quý thứ tư, năm 2001. Ngoài ra, có một số khúc, số đoạn, được phục hồi lại theo bản gốc của tác giả. TXA.
(**) Xem chú thích (*). Mai Lão Bạng là một tu sĩ Thiên Chúa giáo (bậc thầy năm), ở Nghệ An, người đã cùng Phan Bội Châu, linh mục Đậu Quang Lĩnh (Đỗ Lệnh) đề xướng thành lập Duy tân Giáo đồ hội từ 1903. Ông là một trong số ít giáo sĩ Thiên Chúa giáo lớp sau có tư tưởng và hành trạng chống Pháp, nhưng ông rất căm ghét những lãnh tụ Bình Tây sát tả thế hệ trước ở Triều đình Huế. TXA.
(***) Bài thơ dài Cảm nhận bên dòng sông này, tác giả đã sử dụng lại ở cuốn tiểu thuyết MÙA HÈ BÊN SÔNG, các bản 2000, 2001 và 2003 (gồm cả phần khảo cứu phụ lục). Tiểu thuyết ấy là những suy nghĩ về cuộc chiến tranh – cách mạng 130 năm gần đây (1858 – 1975 – 1989), tập trung vào giai đoạn 1945 – 1975, đặc biệt là 21 năm chia cắt Đất nước (1954 – 1975) và thời hậu chiến. TXA.
MỤC LỤC
◘ Lời giới thiệu của Hoàng Phủ Ngọc Tường
◘ Lời thưa của tác giả (Trần Xuân An), nhân dịp chép lại bản Nắng & Mưa xuất bản lần thứ nhất…
1. Tóc bay sương trắng
2. Tiếng chuông xưa
3. Ruộng đất yêu dấu
4. Bài tháng giêng
5. Người đàn bà giữa vùng rừng khai hoang
6. Kính nhớ Pablô Nêruđa
7. Tạ ơn mảnh đất quê nhà
8. Ánh trăng đầu xóm
9. Giọt sương
10. Vì sao
11. Giếng hoang
12. Thưa với mẹ
13. Tôi mãi hoài tìm kiếm
14. Bài mơ
15. Một chút tự trào
16. Trăng ngoài trời, trăng trong nhà
17. Bài ca Diên Sanh
18. Từ câu nói ngây thơ của con
19. Lời thiêng
20. Bài thơ ru búp bê
21. Còn lại một chút hoang tưởng
22. Đánh thức
23. Nơi đây là nơi đâu
24. Nghĩ về “khát vọng sống”, tạ ơn anh em Van Gốc
25. Tạ ơn Thạch Hãn
26. Cho mình và cho nhau
27. Trốn và gặp
28. Dù sao
29. Thơ ở nhà thương
30. Cảm nhận bên dòng sông
In 800 cuốn khổ 13 cm x 19 cm tại Xí nghiệp In Hai Bà Trưng, 1A Nguyễn Trường Tộ – Huế. Sắp chữ điện tử tại Trung tâm Máy tính Đại học Tổng hợp Huế. Giấy phép xuất bản số 01/GP./XB. do Sở Văn hoá – Thông tin Quảng Trị cấp ngày 10-01-1991. In xong và nộp lưu chiểu, tháng 03-1991.
BÌA 3
Chân dung
Trần Xuân An,
do Lê Quang Thỉ kí hoạ
Sinh năm 1956 tại Quảng Trị (*).
Tốt nghiệp Khoa Văn Đại học Sư phạm Huế. Dạy học trên địa bàn người Kơ Ho Tây Nguyên (**). Từ năm 1983, bị “bệnh tâm thần” nên nghỉ dạy, về làm thợ may (***) ở quê nhà.
Đã in thơ trên các báo văn nghệ trong nước từ năm 1975. Giải thưởng thơ báo Văn nghệ Giải phóng năm 1976 (***). Ngay từ lúc mới xuất hiện, Trần Xuân An đã thu hút sự chú ý của công chúng bằng ngôn ngữ tinh lọc và dịu dàng, hé mở một nội tâm toả sáng, nhân hậu. Tập thơ “Nắng và Mưa” gần 200 bài, mải miết suốt 15 năm thời tuổi trẻ gian khổ của anh, theo chúng tôi là một tập thơ hay, hi vọng sớm được ra mắt bạn đọc.
(Tạp chí CỬA VIỆT, số 5 – 1990)
Cước chú ở tr. B (bìa 4):
(*) Đúng ra quê sinh là Huế, quê gốc là Quảng Trị.
(**) Tức là tỉnh Lâm Đồng.
(***) Xem Lời thưa… (viết ngày 28. 02. 2005).
(***) Đúng ra là 1975.
(Tác giả đính chính, 02. 3. 2005).