Web Tác giả Trần Xuân An
Trần Xuân An
biên soạn (tổ chức nội dung, khảo luận, bị chú các bài khảo luận của các tác giả,
chú giải thơ, chuyển ra ngôn ngữ thơ
trên cơ sở Thi tập chữ Hán do Nnc. Trần Viết Ngạc sưu tầm,
bản phiên dịch của Nnc. Trần Đại Vinh, Nnc. Vũ Đức Sao Biển, Nnc. Nguyễn Tôn Nhan
[Ts. Ngô Thời Đôn hiệu đính các bản dịch]).
Xem phần nguyên tác chữ Hán (hình ảnh quét chụp [scan]):
http://www.tranxuanan-writer-3.blogspot.com
http://www.tranxuanan-writer-4.blogspot.com
Bài 31
HỌA THỐNG ĐỐC HOÀNG ĐẠI NHÂN
PHÚ BÌNH ĐẠO TRUNG NGUYÊN VẬN
Dã sắc sơn nhan nhất dạng hồng
Du nhiên vân dịch biến thiên dung
Vị tương giáp tẩy lưu hà thủy
Dục trợ quân thanh khiếu lãnh tùng
Đường tí phân nhương do thoán bắc
Hồ cầu nhu trệ vị chi đông
Thùy giao xuất hiệp vô dư cữu
Hoặc sử yêu ma cảm thiết hùng.
TRẦN ĐẠI VINH
phiên âm
31
HỌA NGUYÊN VẦN
BÀI “GIỮA ĐƯỜNG PHÚ BÌNH”
CỦA THỐNG ĐỐC HOÀNG ĐẠI NHÂN
Đồng núi sắc màu một dáng hồng
Mây ùn mưa tỏa khắp tầng không
Sao đem giáp rửa dòng sông chảy
Muốn giúp quân tinh gió ngọn tùng
Bọ ngựa phân vân còn trốn bắc
Áo cừu đẫm ướt chửa qua đông
Ai cho rút kiếm ta không lỗi
Khiến bé mọn kia xưng trộm hùng.
TRẦN ĐẠI VINH
dịch thơ
31
HỌA NGUYÊN VẦN BÀI “GIỮA ĐƯỜNG
PHÚ BÌNH” (1) CỦA THỐNG ĐỐC
HOÀNG ĐẠI NHÂN (2)
Sắc màu đồng ruộng, nét mặt núi non [cùng] một dáng
hồng
Bỗng dưng mây di chuyển [đến, làm] biến đổi dung mạo
[của bầu] trời
Sao đem áo giáp giặt tẩy [trong] nước sông [đang] chảy
Muốn giúp quân lính [thêm] thanh thế [như] những cây tùng
[trên] đỉnh núi [đứng] hát [nghiêm trang]
Cánh tay [loài] bọ ngựa lộn xộn, quấy rối còn giấu
(trốn) [ở phía] bắc
Tấm áo da chồn cáo mềm xàu, ướt đẫm chưa qua [được
trong] mùa đông
Ai cho [chúng] rút [kiếm ra] khỏi vỏ (hoặc: sổ cũi),
không phải lỗi chúng ta
Sự bất định khiến [lũ] yêu ma (lũ nhỏ mọn) dám trộm [tiếng],
[xưng] hùng!
(1) Phú Bình, Thái Nguyên (ĐNTL.CB., tập 31, sđd., tr. 361, 368).
(2) Hoàng Tá Viêm. Về chữ “đại nhân” (nghĩa đen: người lớn lao), xin xem chú thích về chữ “công” trong “Nguyễn công” – chú thích (1) bản dịch thơ, bài số 7.
31
“GIỮA ĐƯỜNG PHÚ BÌNH”
Họa thơ Hoàng Tá Viêm
Sắc ruộng màu non: một dáng hồng
Mây ùn mưa tỏa, ảo tầng không
Sao đem giáp rửa, trôi dòng nước
Muốn giúp quân nghiêm, trỗi đỉnh tùng
Tay bọ cướp tràn còn trốn bắc
Áo chồn ướt đẫm chửa qua đông
Ai cho rút kiếm ta không lỗi
Rối lệnh, trộm liều, quái mạo hùng! (1)
(bản biên soạn)
(1) Rối lệnh, quái gan, xưng trộm hùng!
Bài 32
NGẪU THÀNH,
TRÌNH THỊ SƯ NGUYỄN
Sơn đa hồ thử, hải đa kình
Không sử ngư tiều bạc mộ kinh
Điền hải khủng thương ngư miết quật
Tắc sơn nan tận điểu dương trình
Quần ngôn doanh phát mưu hà định
Sổ nẫm lao nhương hoạn vị bình
Nhược vấn toàn bàn quy kết xứ
Phủ như tập triệu chiến Hàn Bành.
TRẦN ĐẠI VINH
phiên âm
32
CHỢT LÀM,
TRÌNH QUAN THỊ SƯ HỌ NGUYỄN
Núi nhiều cáo chuột, biển nhiều kình
Luống khiến ngư tiều chiều xuống kinh
Lấp biển, sợ chôn hang trạnh cá
Vùi non, khó chặn nẻo dê chim
Lời gièm nổi dậy mưu sao định
Năm tháng lao đao hận chẳng lành
Thử hỏi toàn bàn nơi tụ họp
Dụ như Cung Triệu: đánh Hàn Bành.
TRẦN ĐẠI VINH
dịch thơ
BẤT CHỢT LÀM XONG, BÀY TỎ
[CÙNG] QUAN THỊ SƯ HỌ NGUYỄN (1)
Núi nhiều cáo chuột, biển lắm cá kình [hung dữ]
Khi không [lại] khiến [cho] người hái củi, dân đánh cá
kinh hãi [trong mỗi] buổi chiều [lúc nắng trời
đã] nhợt nhạt
Lấp biển, sợ chôn hang rùa, cá
Chặn núi, khó tiệt nẻo [đi lối về của] dê, chim
Lời nói [của] đám đông, bới móc, dựng lên đầy khắp,
[như vậy] mưu lược làm sao định [ra được]
Nhiều năm mệt nhọc trừ dẹp, tai họa [giặc phỉ vẫn]
chưa bình định [xong]
Thử hỏi toàn bàn [họp về] nơi quy tập [lại bọn phỉ ấy]
[Nên] vỗ yên (phủ dụ) [bọn chúng] như y theo cách xưa
vời gọi, [do] sợ hãi Hàn, Bành (2) sao? (3)
(1) Nguyễn Uy (Oai) (ĐNTL.CB., tập 32, tr. 248).
(2) Theo TQSL., sđd., tr. 66 - 67: Hàn Tín đã thu phục được Bành Việt, tướng của Hạng Tịch. Hàn Tín, Bành Việt, hai danh tướng của Hán vương, đã từng chiếm đánh nước Triệu trong nửa ngày. “Chiến” còn có nghĩa: sợ.
(3) Hẳn đây là một câu hỏi nêu ra nhằm tranh luận với quan điểm thiên về vỗ yên (cấp đất, cấp tiền cho bọn phỉ – Thái Bình Thiên Quốc biến tướng –, cho chúng ở lại nước ta để sinh sống). Trong thực tế, chúng lại trá hàng rồi mưu phản, như vụ đánh úp thành Lạng Sơn, lúc quân binh của thành do Ông Ích Khiêm rút đi gần hết (để tiễu phỉ ở vùng khác)..., (xem ĐNTL.CB., sđd., tập 32, tr. 61 - 62). Cũng trong thực tế, giặc Cờ Đen Lưu Vĩnh Phúc, mặc dù có gây họa nhiều cho dân ta (cướp bóc, tàn sát), nhưng cũng được Hoàng Tá Viêm, Tôn Thất Thuyết vỗ yên và sử dụng đánh Pháp thành công, nhất là các trường hợp như quân ta khó lòng trực tiếp ra tay vì bị hòa ước bó buộc hoặc ngại làm vỡ không khí nghị hòa (giết Françis Garnier, 1873; Henry Rivière, 1882). Vì hai mặt tích cực và tiêu cực, xét về tác dụng trong việc vỗ yên, sử dụng “giặc Cờ”, nên bấy giờ vấn đề được bàn cãi gay gắt trong các cuộc họp của tướng sĩ (ĐNTL.CB., tập 31, sđd., tr. 317, 362; tập 32, sđd., tr. 99...).
32
BẤT CHỢT LÀM XONG,
BÀY TỎ CÙNG QUAN THỊ SƯ
NGUYỄN UY (NGUYỄN OAI)
Núi nhiều cáo chuột, biển đầy kình
Bạc mặt chiều hôm, chài, Thượng kinh
Chẹn biển, e chết hang cá nở (1)
Ngăn non, khó tiệt nẻo diều sinh (1)
Xấu gièm, lắm tiếng, mưu sao định
Khổ dẹp, nhiều năm, nạn chửa bình
Thử hỏi toàn bàn nơi tụ giặc?
Vỗ mời như Triệu, đánh Hàn binh (2)?!
(bản biên soạn)
(1) Dịch thoát. Nguyên văn có nghĩa: “hang rùa cá”, “nẻo dê chim”. Diều: diều hâu (biểu tượng của sự hiếu chiến, sống bằng xác người).
(2) Tạm lược chữ “Bành” (Bành Việt) ; như thế vẫn đủ nghĩa, lại giữ được nhạc điệu của câu thơ. Hoặc tạm dịch:
“Vỗ mời như cổ, đua Hàn Bành?”
bởi chữ “chiến” còn có nghĩa là “đua nhau hơn thua”, trong một phe. Xem chú thích (2) bản dịch nghĩa bài này.
Bài 33
DẠ VĂN CA CỔ
TRÌNH THỊ SƯ NGUYỄN
Đăng hạ phi thư tiệm giác hàn
Hồi tư sự thế dạ man man
Như kim ban mấn nhân tương lão
Hà xứ tân thanh khách diệc nhàn
Điêu đẩu chinh phu mê chướng vụ
Ngọc hoa thương nữ ỷ lan can
Trung khúc nhược giải bàng nhân ý
Xả khước tì bà xướng nhập quan.
TRẦN ĐẠI VINH
phiên âm
33
ĐÊM NGHE ĐÁNH TRỐNG CA,
TRÌNH QUAN THỊ SƯ HỌ NGUYỄN
Giở sách dưới đèn thấy lạnh lùng
Chuyện đời gẫm lại, đêm mung lung
Tóc phai nay độ ưu tư – lão
Nhạc trỗi nơi nào, nhàn hạ – ngông!
Lính tráng chinh phu mờ chướng khí
Xinh tươi ca nữ dựa lan can
Lời ca nếu giải lòng ngoài cuộc
Bỏ khúc “Tì bà” hát “Vượt ngàn”.
TRẦN ĐẠI VINH
dịch thơ
ĐÊM NGHE ĐÁNH TRỐNG HÁT XƯỚNG,
TỎ BÀY VỚI QUAN THỊ SƯ NGUYỄN (1)
Dưới đèn giở sách, dần dần cảm thấy lạnh
Ngẫm lại [quãng thời gian] sự đời biến loạn (giặc giã),
đêm xa thẳm, mênh mông
Như thể (chừng như) bây giờ, tóc [đã] hoa râm, người
chưa nhưng cũng sắp già
Nơi nào tiếng [hát] tươi mới, khách khứa cũng [hưởng]
nhàn!
Đồ đong gạo [đong lương cho lính] điêu trá (hay nậm
rượu độc ác) (2) [cùng] người lính trận mê mờ
trong sương độc, bệnh sốt rét
Cô gái bán [phấn] buôn [hương] (3) [với (hoặc xinh đẹp
như)] đóa hoa [được làm bằng] ngọc,
tựa vào bao lơn
Khúc hát ngay thẳng giá như cởi bỏ được ý nghĩ [của]
người bàng quan [với dân, với nước]
(hoặc: người bên cạnh; người ngoài cuộc) (4)
Xin tha thứ [cho chúng và] hãy [cùng nhau] từ bỏ cái
đàn tì bà (4), hát lên [khúc hát] “Vào cửa ải” (5).
(1) Nguyễn Uy (Oai), (ĐNTL.CB., tập 32, tr. 248).
(2) Theo mặt chữ của nguyên tác chép tay, “điêu đẩu” có hai nghĩa (hai loại đồ dùng nấu ăn của lính, đêm dùng để đánh cầm canh; đồ đong gạo điêu trá), [Thiều Chửu, HVTĐ., sđd., tr. 50].
(3) Nguyên văn: “thương nữ” (người con gái làm nghề thương mãi [buôn gạo, bán rượu...]). “Ngọc hoa” còn có nghĩa là gái đĩ xinh đẹp.
(4) Vương Tường (Chiêu Quân), đời vua Hán Nguyên Đế (Trung Hoa), bị cống nộp cho “rợ” Thuyền Vu; khi ra cửa ải Vân Quan, Chiêu Quân ngồi trên lưng ngựa gảy đàn tì bà rất ai oán (TĐTNTN., sđd., tr. 604 - 605).
(5) Hơi dè dặt, chúng tôi liên tưởng đến bài Tì bà hành (của Bạch Cư Dị) do Phan Huy Vịnh (thượng thư Bộ Hình, cùng thời) dịch.
33
ĐÊM NGHE ĐÁNH TRỐNG
HÁT XƯỚNG,
TỎ BÀY VỚI THỊ SƯ NGUYỄN UY
(NGUYỄN OAI)
Giở sách dưới đèn lạnh thấm sang
Nhiễu nhương, suy ngẫm, đêm mang mang
Như nay tóc nhuốm, người chừng lão
Đâu chốn nhạc tươi, khách mãi nhàn
Vạc kẻng chinh phu mê chướng khí
Ngọc hoa thương nữ dựa lan can
Lời ngay nếu cứu lòng hờ hững
Buông bỏ Tì bà, hát Vượt ngàn! (2)
(bản biên soạn)
(1) Nếu hiểu “điêu + đẩu” là cái thưng, cái đấu xảo trá (để đối chỉnh với danh từ ghép đẳng lập “ngọc + hoa” vốn có nghĩa bóng là gái đĩ, xin tạm dịch toàn câu (sát nghĩa):
“Thưng đểu chinh phu mờ sốt rét
Hoa ngời thương nữ loá lan can”.
(2) Đây là một bài thơ nghĩ chuyện đời thời biến loạn! Toàn bài thơ nói về quan niệm sống; tiếng trống, giọng ca, người lính, kĩ nữ chỉ là cái cớ trực tiếp. Đừng khiêm tốn thì phải nói là: bài thơ thể hiện triết lí sống, lẽ sống tích cực, đầy trách nhiệm trong hoàn cảnh Đất nước bị ngoại xâm và nội loạn (*). Không thể không liên tưởng đến bài “Bạc Tần Hoài” của Đỗ Mục, đời Đường (Trung Hoa):
Yên lung hàn thuỷ nguyệt lung sa
Dạ bạc Tần Hoài cận tửu gia
Thương nữ bất tri vong quốc hận
Cách giang do xướng “Hậu đình hoa”!
Nước lồng khói toả, cát trăng pha
Thuyền đỗ sông Hoài cạnh tửu gia
Con hát biết chi hờn mất nước
Cách sông còn hát “Hậu đình hoa”!
KHƯƠNG HỮU DỤNG
dịch thơ
(Thơ Đường, tập 1,
sđd., tr. 263).
“Hậu đình hoa” là “một khúc tình ca của Trần Hậu Chuá” (chú thích, sđd.)!
Một quan niệm về mối quan hệ giữa văn chương với hoàn cảnh Đất nước rất cổ nhưng lại rất mới.
Cước chú của bài thơ số 33, thuộc Phần thứ III (Thi tập Nguyễn Văn Tường):
(*) Xem bản tấu của Nguyễn Văn Tường đệ trình vua Tự Đức về việc bố trí quan chức (tướng sĩ...) và về đức liêm khiết (ĐNTL.CB., tập 32, sđd., tr. 31 - 32).
Bài 34
KIÙ PHỎNG
NGUYÊN CAO NIẾT NGUYỄN
Tu mi tài bán bạch
Kiếm bút khởi toàn phao
Giám biệt thùy Tiêu nhãn
Hùng phi thị Tín hào
Bất tham Tần hóa bảo
Vị tiễn Hán bồng cao
Nhiễu nhiễu phương đa cố
Vô vi vật hiệu Tào.
TRẦN ĐẠI VINH
phiên âm
34
GỞI THĂM NGUYÊN ÁN SÁT
CAO BẰNG HỌ NGUYỄN
Tóc mày vừa bạc nửa
Kiếm bút há vứt đi
Ai mắt Tiêu Hà xét?
Hàn Tín hào sảng kia!
Chẳng ham đồ Tần quý
Cỏ Hán phải cắt lì
Nhiễu nhương nhiều biến cố
Chớ Tào Tham vô vi.
TRẦN ĐẠI VINH
dịch thơ
34
GỬI THĂM NGUYÊN ÁN SÁT CAO BẰNG
HỌ NGUYỄN (1)
Mày râu vừa mới bạc một nửa
Kiếm, bút chẳng lẽ (há) vứt hết cả [đi]?
Ai [có đôi] mắt Tiêu (2) soi xét?
Ấy [là cái] tài xuất chúng [của] Tín (3) (: phát dương chí
khí mạnh mẽ) [ư]?
Không tham [trước] đồ vật, tiền tệ (hay ấn tín [phong
cho]) [của nhà] Tần (4)
Cùng cắt cho đều cỏ bồng (thường dùng làm mũi tên
cho cung nỏ), cỏ cao (để chữa bệnh) [của nhà] Hán
Nhiễu nhương [ở] phương [trời] lắm biến cố (4)
[Hãy] vô vi (5) [bạn nhé!], chớ bắt chước Tào (6)!
(1) Nguyễn [Quang] Quýnh ở ĐNTL.CB., tập 28, sđd., tr. 73; ĐNTL.CB., tập 31, sđd., tr. 86; QTHKL., sđd., (số thứ tự 728), tr.178; chứ không phải là Nguyễn Quýnh anh em của Nguyễn Thuật (tập 37, sđd., tr. 142).
(2) Tiêu Hà: mưu thần của Lưu Bang (Hán Cao Tổ).
(3) Hàn Tín: tướng giỏi của Lưu Bang. Lúc còn nghèo khổ, chịu ăn cơm hẩm của người đàn bà làm nghề giặt rửa, chịu lòn trôn người khác giữa chợ một cách nhục nhã để nuôi chí lớn. Về sau, thành danh tướng của nhà Hán. Nhưng danh đã thành mà thân không chịu thoái về, nên bị Lưu Bang (vợ là Lữ Hậu) giết, bởi sợ Hàn Tín cướp ngôi. Tấm gương ẩn nhẫn nuôi chí và bài học về bi kịch công thần!
(4) Khuôn dấu (ấn tín) và hàng hóa, mũi tên của cung nỏ và thuốc thang, đó là bốn biểu tượng của quyền lực (kể cả quyền lực của bọn làm tay sai cho ngoại bang), của giàu có (dù nô lệ), của ý chí và sức mạnh chiến đấu, của sự cứu chữa mọi vết thương, căn bệnh. Chiến tranh mặc dù chính nghĩa vẫn gây ra nhiều hi sinh, đau đớn. Do đó, phải có tài năng, thuốc thang của y tế, của nhân đạo.
Gửi thư bằng thơ cho bạn, Nguyễn Văn Tường đã củng cố cho nhau một thái độ chính trị, một chọn lựa trước vận mệnh của nhân dân và Tổ quốc đang bị thách thức bởi thực dân Pháp và kẻ thù nhẵn mặt – bọn vua chúa Tàu.
(5) “Vô vi: bất nhi bất vi” (Lão Tử). Hãy làm tất cả vì đời nhưng xem như chẳng làm gì, thậm chí đừng lưu danh (vô danh), đừng kể công lao (vô công)... “Vô vi”, ngược với “hữu vi”, là một chủ trương chính trị dùng đạo đức, học thuật để giáo hóa con người, không dùng bạo lực và hình pháp.
(6) Tào Tháo, cũng xem như là kẻ đã cướp ngôi nhà Hán, lập nên nhà Ngụy, mặc dù đến đời con Tào Tháo là Tào Phi mới chính thức xưng là Ngụy đế. Tào Tháo còn là một hình tượng văn học bị bóp méo theo quan điểm phù Hán, hoài Hán của tác giả tiểu thuyết Tam Quốc diễn nghĩa (La Quán Trung), mặc dù trong thực tế lịch sử Tào Tháo là một thi sĩ, một nhà chính trị không tệ hại như thế. Ở đây, Nguyễn Văn Tường muốn phê phán sự cưỡng ép vua Hán, chuẩn bị cho Tào Phi cướp ngôi hẳn, về sau.
Tuy nhiên, thấy rõ là suốt bài thơ, Nguyễn Văn Tường đều dùng các điển tích Bắc sử (sử Trung Hoa) thời cuối Tần đầu Tiền Hán (khoảng năm 202 - 215 [?] trước công nguyên Thiên Chúa giáo). Vì vậy, Tào được đề cập đến hẳn là Tào Tham. “Tiêu quy, Tào tùy”: Tiêu Hà quy định nên phép tắc nhà Hán trước, Tào Tham kế nhiệm, tuân theo sau (TĐHV., tập hạ, sđd., tr. 277). Cả Tiêu Hà lẫn Tào Tham đều nối nhau làm tướng quốc (TQSL., sđd., tr. 69).
Dù với điển tích là Tào Tháo hoặc Tào Tham, thì ý tưởng “công thành thân thoái” hoặc “vô vi” (đại ẩn tại triều trung...) [xem chú thích (5) trước chú thích này] vẫn là ý tưởng kết đọng cuối bài thơ; hoặc giả, với ý không nên nối tiếp đường lối hiện hành do Trần Tiễn Thành lũng đoạn...
Phải chăng, “vô vi bất nhi bất vi” là một cách thoát khỏi sự bế tắc của tư tưởng chủ chiến trước sự thắng thế của khuynh hướng chủ “hòa”? Nghĩa là vẫn hành động theo chủ trương chủ chiến một cách bí mật! [Xem bài 38, “Bệnh trung kí phỏng đồng chí”]...
Ở đây, xin ghi cả Tào Tháo lẫn Tào Tham cho rộng đường tra cứu thêm và rộng đường suy ngẫm về tứ thơ. Xin xem câu kết bản dịch thơ bài này của Trần Đại Vinh.
34
GỬI THĂM NGUYÊN ÁN SÁT
CAO BẰNG NGUYỄN QUÝNH
Mày râu vừa bạc nửa
Kiếm bút há quăng đi!
Ai mắt Tiêu soi lẽ
Kìa tài Tín, chói uy!
Dấu, hàng Tần, chẳng hám
Tên, thuốc Hán, đều chi (1)
Rối nhiễu nơi tao loạn
Học gì Tào vô vi!
(bản biên soạn)
Chùm thơ hai bài 35. 36
QUÂN TRUNG THUẬT HOÀI
35: BÀI A
Nhất biệt tinh chu ngũ
Tương tư cửu khúc trường
Tái phong lai kính trúc
Dạ nguyệt thướng cao lương
Sầu bất li cô tái
Mộng thường đáo cố hương
Phong hầu thùy tự ngộ
Định viễn mấn thành sương.
TRẦN ĐẠI VINH
phiên âm
35. 36
TRONG QUÂN TỎ LÒNG
35: BÀI A
Một đi năm năm tròn
Nhớ đau chín khúc ruột
Gió ải lay xanh trúc
Trăng đêm bước cầu son (1)
Sầu chẳng rời ải vắng
Mộng thường lại cố hương (1)
Phong hầu ai lạc lối
Định Viễn tóc pha sương (2).
TRẦN ĐẠI VINH
dịch thơ
(1) Tác giả nhớ về Huế, Quảng Trị ([?] – nbs.). Đó là hai hình ảnh của hoài niệm, hồi tưởng, tiểu đối và đối chỉnh với hai hình ảnh của hiện tại mà tác giả đang sống, chiến đấu tiễu phỉ (ở hai câu trên của hai câu này).
(2) Định Viễn (sử Trung Hoa): mĩ hiệu của Ban Siêu, có nghĩa là bình định được vùng đất biên viễn. Đó là một người được phong đến tước hầu; trải qua ba mươi năm chinh chiến ở biên giới, khi trở về đầu đã bạc trắng.
35. 36
TẠI NƠI BẢN DOANH CỦA CÁC TƯỚNG SĨ,
BÀY TỎ NỖI LÒNG
35: BÀI A
Một [lần] ra đi [vậy mà đã] tròn năm chu kì của vì sao
(5 năm)!
Nhớ nhau, [xót đau như] chín khúc ruột quằn
Gió [biên] ải đến [với những cành] trúc [ven] lối [đi] (1)
Trăng đêm [khuya như bước] lên cầu cao
[Nỗi] sầu không [chịu] rời [biên] ải cô quạnh
[Giấc] mộng thường về lại quê cũ
[Nhận] phong chức quan, hàm tước, ai [đã trót] nhầm lỡ
[Sự] quyết định [từ] phương xa (2), [khiến] mái tóc hóa
sương [trắng]! (3)
(1) “Kính trúc” cũng có thể dịch là “trúc thẳng”. “Kính trúc” đối với “cao lương”, rất chỉnh, về từ loại, và cấu tạo ngữ (ngữ danh từ = tính từ + danh từ). [Xem: HVTĐ, sđd., tr. 192].
(2) Lệnh từ kinh đô ban ra Bắc (điều động Nguyễn Văn Tường vào Huế nhận lệnh sung vào phái bộ Lê Tuấn, 1873 - 1874); hoặc: xong việc nơi biên ải (nhưng lúc này vẫn chưa diệt xong giặc Cờ, F. Garnier và Puginier lại tăng cường mua chuộc, quấy phá!).
(3) Xin lưu ý câu kết của bài thơ. Đó là một câu rất tâm trạng của tác giả.
35. 36
TẠI NƠI BẢN DOANH CỦA CÁC
TƯỚNG SĨ, BÀY TỎ NỖI LÒNG
35: BÀI A
Một đi, năm Tết trọn
Quằn chín khúc u buồn
Gió núi lay đường trúc
Trăng khuya lên đỉnh rường
Sầu không rời ải vắng
Mộng mãi về quê thương
Quan tước, ai nhầm chọn
Định Viễn tóc hóa sương!
(bản biên soạn 1/35)
35: BÀI A
TẠI NƠI BẢN DOANH CỦA CÁC
TƯỚNG SĨ, BÀY TỎ NỖI LÒNG
Một giã nhà, năm năm trọn!
Nhớ nhau, chín khúc buồn thương
Gió rừng lay tâm thẳng trúc
Trăng muộn lên cầu cao rường
Sầu úa chẳng rời hoang ải
Mộng hùng (1) thường về cố hương
Nẻo quan, tự ai nhầm chọn
Yên ải, tóc hóa thành sương!
(bản biên soạn 2/35)
(1) Giấc mộng hào hùng (theo nghĩa tiếng Việt).
Chùm thơ hai bài 35. 36
QUÂN TRUNG THUẬT HOÀI
36: BÀI B
Độc túc lũng đầu phùng lậu vĩnh
Khước vô bôi tửu phá sầu trường
Thâm lâm tự thị đa kinh cức
Đại địa hà tằng phạp đống lương
Sổ nẫm dĩ qua chư tạp ải
Nhất sinh khả tiếu kỉ bồng tang
Gian nan thùy đạo chinh phu ý
Ca lạo hoàn thi tuyết hựu dương.
NGUYỄN TÔN NHAN
phiên âm và dịch nghĩa
35. 36
BÀY TỎ NỖI NIỀM ẤP Ủ TRONG LÒNG
[Ở] NƠI TƯỚNG SĨ BÀN KẾ (1)
36: BÀI B
Một mình trú lại [vào ban đêm ở] đầu gò đất giữa đồng
(2), gặp giờ khắc [kéo dài ngỡ như đêm] mãi mãi
Hóa ra, không [có] chén rượu [để] phá [tan] nỗi lòng
buồn bã
Rừng sâu, tự [cho là] phải [với] nhiều gai góc (: gian
khổ, giặc phỉ)
Đất rộng (: lớn), sao từng trải qua [vẫn] thiếu rường cột
(: người hiền tài)
Nhiều năm, đã đi qua lắm cửa ải, nơi thu thuế cửa khẩu
Một đời có thể cười, với bao cung tên (: chí làm trai) (3)
Gian khó, ai nói [về lẽ đạo cứu nước, giúp dân như] ý
nghĩ [của] người [vào] trận mạc
Hát ca, lấy lời để động viên, an ủi (4) [rồi] trở về [với]
thơ, [cứ] tuyết lại dương liễu (5)!
(1) “Quân trung”: giữa việc binh; giữa nơi đóng quân.
(2) “Lũng”, còn có nghĩa là cái mộ (mồ mả).
(3) “Bồng tang” (tang bồng), lược từ thành ngữ “tang hồ, bồng thỉ” (cung gỗ dâu, tên cỏ bồng). Tục xưa, sinh được con trai, người ta làm lễ với “tang hồ, bồng thỉ”, bắn sáu phát (bốn hướng, đất và trời), với ước vọng tỏ chí làm trai cho con.
(4) “Ca lạo” cũng có thể đọc là “ca lao” (hát về gian khổ = ngợi ca gian khổ trong sứ mệnh đánh giặc cứu nước).
(5) “Tuyết”, tượng trưng cho sự lạnh lẽo (đoan trang, nghiêm túc) và trắng trong (trinh trắng). “Dương” (cây dương liễu, liễu rủ), tượng trưng cho lông mày thanh tú, xanh mượt, chỉ người con gái đẹp. (Xem TĐHV., sđd., tập hạ, tr. 324; tập thượng, tr. 227). Tuy nhiên, “tuyết” và “dương [liễu]” chắc hẳn chỉ là biểu trưng cho sự trong sạch lẫm liệt trong tư cách và là sức sống chịu đựng được khô khốc giữa những trường sa, trường sa trắng xóa, trắng bỏng gió lửa, trắng buốt mưa bão của quê nhà Quảng Trị, nơi sinh trưởng của nhà thơ chiến sĩ Nguyễn Văn Tường.
Cũng có thể tác giả nhắc đến điển tích “xuân dương, bạch tuyết”, ý nói: bài hát dân dã, thơ ca mộc mạc.
35. 36
BÀY TỎ NỖI NIỀM ẤP Ủ TRONG
LÒNG Ở NƠI TƯỚNG SĨ BÀN KẾ (1)
36: BÀI B
Khuya lẻ, đầu gò, nhằm khắc thẳm (1)
Hóa không chén rượu vỡ buồn thương
Rừng sâu rằng phải nhiều gai góc!
Đất rộng sao từng thiếu cột rường?
Lắm hạ đã qua bao ải thuế
Một đời cười được mấy biên cương?
Gian nan ai tỏ lòng người lính
Hát khổ, lại thơ tuyết với dương.
TRẦN XUÂN AN
chuyển lại thơ
(1) Có thể dịch:
“Khuya lẻ, đầu gò, canh thẳm sương”
Nhưng tác giả buông thanh trắc cuối câu thứ nhất, nhằm diễn đạt sự buồn bực, trăn trở, không dễ đi vào giấc ngủ của mình. Lúc này, thời điểm với hiện thực được phản ánh trong bài thơ, là lúc tác giả đang lỡ độ đường.
Bài 37
THẤT ĐỘ XƯƠNG GIANG
Ngũ niên thất độ thọ Xương Giang
Lai vãng na kham trở thả trường
Tế hiểm phi vô chu tiếp lợi
Chấp đà vị định lỗ phàm mang
Thao thao thế sự khan như thủy
Kiển kiển (1) thần tâm kết tự sương
Bắc cố Triều đình tiêu hãn thậm
Lô Thao hà thượng nhẫn cao tường.
NGUYỄN TÔN NHAN
phiên âm và dịch nghĩa
(1) Tắc (tái)? Xin lưu ý: “thao thao” đối rất chỉnh với “kiển kiển” (từ lấp láy toàn phần).
37
BẢY LẦN VƯỢT SÔNG XƯƠNG
Năm năm bảy lượt vượt qua, rót rượu mừng thọ với
sông Xương
Đi qua, đi lại sao đành cam chịu [trước] sự hiểm trở,
[khiến quân] phải nghỉ chân lâu (chậm trễ)
Cứu khỏi sự hiểm nghèo, [mọi người] đều bị lỗi [là]
không thuyền chèo tiện lợi (2) [chiến đấu tốt,
chuyển quân nhanh]
Cầm bánh lái chưa định được [phương hướng, luồng nước,
sách lược], [khiến] khiên (: mộc),
buồm bận rộn [không ngớt]
Cái cuồn cuộn [của] việc đời, trông như nước [cuốn]
Sự ngập ngừng, ách tắc, khó nói [khiến] lòng dạ kẻ bề
tôi kết đọng lại như sương [trên râu tóc]
Trông ngóng (3) Bắc, Triều đình [bàn tính] thâu đêm
suốt sáng (3)
[Quân] trên [sông] Lô, [sông] Thao (4), nỡ đùa bỡn,
lượn lờ ư?
(1) Sông Xương (Xương Giang) thuộc tỉnh Bắc Ninh.
(2) Xem ĐNTL.CB., tập 32, sđd., tr. 331 - 332.
(3) Kẻ bề tôi chắc không dám dùng chữ “cố” đối với Triều đình; đây chỉ là trường hợp đảo ngữ, do đó, tạm dịch như trên. Nhưng biết đâu... Mặc dù là kẻ bề tôi (thời phong kiến chuyên chế), rất mực giữ trọn chữ trung, vẫn có lúc uất giận nào đó... (?). Theo lô-gích ngữ pháp, câu thơ này là một câu đơn, có mô hình b+V+C+[V]+tr hoặc: b+V+C+tr.
(4) Sông Lô, sông Thao (nhánh, khúc của sông Hồng) khởi nguồn từ tỉnh Vân Nam (ở Trung Quốc), nơi Jean Dupuis đã lập kho cung cấp súng đạn, các phương tiện chiến tranh hiện đại cho quân Thanh, quân Hồi nổi loạn và cả cho quân giặc Cờ với âm mưu quấy rối, thu lợi nhuận (xem NĐNĐDVPVTH., sđd., tr. 86 - 90, mặc dù Y. Tsuboi trình bày phiến diện...; xem ĐNTL.CB., tập 32, sđd., tr. 252 - 253, 281...).
37
BẢY LẦN QUA SÔNG XƯƠNG
Năm năm bảy chén chúc sông Xương
Qua, lại, sao cam hiểm chặn đường
Cứu nạn, nào không tàu máy tốt
Lái thuyền, chưa định, buồm khiên cuồng!
(1)
Việc đời cuộn chảy, trông như nước
Tim lính nghẹn ngừng, đọng tợ sương (2)
Ngóng Bắc, triều đình thâu tối sớm
Lô, Thao, trên sóng, nỡ hề tuồng!
TRẦN XUÂN AN
chuyển lại thơ
(1) Xin xem thêm bản dịch nghĩa bài này và phần chú thích. Tạm dịch như trên, hoặc:
Cứu nguy, lỗi chẳng thuyền chèo tốt
Cầm lái, ổn đâu, buồm mộc cuồng!
(2) Trái tim đọng sương (hình ảnh tượng trưng gồm hai hình ảnh, hoán dụ và ẩn dụ [tim, sương], cấu tạo thành một), hoặc: nỗi âu lo, trăn trở khiến tóc hóa sương (Nghẹn thắt lòng tôi, kết tựa sương).
Việc đời cuồn cuộn, trông như nước
Tâm chí nghẹn ngào, đọng tựa sương.
Bài 38
BỆNH TRUNG KÍ PHỎNG ĐỒNG CHÍ
Ngã sinh bất thị cộng sinh thần
Cảnh ngộ thiên đồng thử nhược (khổ [?]) tân
Đa bệnh tương lân sa mạc khách
Quả tình tự tiếu đẩu sao nhân
Ngư duyên tham nhĩ ưng vong thủy
Nhạn cố li hàn vị báo xuân
Kí đạo như kim tầm thị xứ
Dã hoa sơn thái vị toàn bần.
NGUYỄN TÔN NHAN
phiên âm và dịch nghĩa
38
TRONG LÚC BỆNH, GỬI LỜI THĂM HỎI
[BẠN BÈ] CÙNG CHÍ HƯỚNG
[Chúng] ta sinh ra không phải cùng giờ sinh (1)
Hoàn cảnh [mỗi người] gặp phải (: cảnh ngộ)
[lại] nghiêng về [chỗ] giống [nhau], [là] cùng nỗi
cay [đắng] ấy
Lắm bệnh (2), cùng thương [nhau], [như những] người
[đi trong] sa mạc [vốn rất gắn bó với nhau...]
Ít (3) tình cảm [cá nhân, gia đình], tự cười [mình], [là
những] kẻ nghèo nàn, hèn mọn (4) (: kẻ vác rá
vo gạo và cái đấu đong gạo – chạy gạo)
Cá bởi tham mồi nhử, nên quên nước
Chim nhạn (5) cố ý rời bỏ sự lạnh lẽo [của tiết trời, của
thời cuộc], cùng báo [tin mùa] xuân [đến]
Nhắn gửi lời, hiện tại (6) (: [người] cùng hiện thời),
[hãy] tìm đúng chốn [phải tìm]
Hoa hoang dại, cỏ núi rừng, chưa [phải] hoàn toàn
nghèo nàn (7).
(1) “Cộng sinh thần”, không thể dịch là “tinh thần cùng sống chung” được. Bất kì với hình thái xã hội nào, loài người vẫn phải “cộng sinh”, hoặc bầy đàn, hoặc công xã, hoặc gia đình... Hai chữ “xã hội”, cho dù xã hội nào, thuộc thời đoạn lịch sử gì, cũng hàm nghĩa “cộng sinh”. Xem mục từ “thần”, TĐHV., sđd., tập hạ, tr. 383; xem lại văn cảnh.
(2) “Bệnh” cũng là bi phẫn, buồn lo, chưa hẳn là ốm đau.
(3) “Quả” (ít), cũng là tiếng tự khiêm xưng, trong từ “quả nhân”. Xem chú thích (16), bản dịch nghĩa, bài thơ số 62.
(4) Thử so sánh để thấy tác giả tự trào một cách khiêm tốn: “Đẩu tiêu nhân” đối cả từ loại với “sa mạc khách”. “Mạc” là bãi cát, “sa mạc” là bãi cát, vùng cát toàn cát. “Tiêu” là “đêm”. “Đêm” mấy khi không “sao”! Có đêm mùa đông, mưa, vắng “sao”, nhưng kì thực đêm luôn luôn bao gồm sao như bãi cát, miền cát luôn luôn bao gồm cát. “Sa mạc” và “đẩu tiêu” là hai cặp từ ghép chính phụ, không phải thuộc loại từ ghép đẳng lập. Nhưng ở đây là: Mải lo nghĩ việc nước, quên tình nhà, nên thành kẻ nghèo; không phải là ra đi trong đêm đen thời cuộc, nhìn sao bắc đẩu, nam đẩu mà tìm đường. Cấu tạo ngữ: “đẩu sao nhân” cũng như trên.
(5) “Nhạn” (chim én), loại chim thiên di, biểu trưng cho việc nắng ấm mùa xuân về, cũng là chim đưa thư, như bồ câu.
(6) “Như kim”, vốn được quen dùng với nghĩa là “hiện tại”, nhưng dịch sát nghĩa là “cùng hiện thời”. Ngữ, nhưng được dùng như từ.
(7) Hiện nay, chỉ tìm được tập thơ này của Nguyễn Văn Tường (sáng tác từ 1869 đến 1877), gia đình hậu duệ lưu giữ được. Như vậy, có lẽ tư tưởng kháng chiến vũ trang từ hồi còn làm phủ doãn Thừa Thiên (ĐNTL.CB., tập 30, sđd., tr. 171 - 173), về sau này, vẫn còn nung nấu trong lòng ông khôn nguôi. Xin xem thêm bài “Kí phỏng nguyên Cao niết Nguyễn”, số 34. Và xin xem thêm ĐNTL.CB, tập 31, sđd., tr. 86 - 89 và tr. 103 - 104, về kế hoạch lập vùng căn cứ địa kháng chiến, khai phục đường mòn và khai thông thêm thượng đạo mới (sau này là đường mòn Hồ Chí Minh, quốc lộ 1B Hồ Chí Minh xuyên Trường Sơn).
Hai câu kết của bài thơ cũng là tư tưởng của nhóm chủ trương kháng chiến vũ trang Thân Văn Nhiếp, Nguyễn Quýnh và tất nhiên, gồm vai trò của người vừa vạch kế hoạch vừa dấn thân bằng hành động Nguyễn Văn Tường. Xin xem hai bản tấu của Thân Văn Nhiếp và kiến nghị của Nguyễn Quýnh, Nguyễn Văn Tường, ĐNTL.CB., tập 31, sđd., tr. 83 - 84, 86 - 89, 103 - 104, 202 - 204, 244 - 245.
38
TRONG LÚC BỆNH,
GỬI THĂM ĐỒNG CHÍ
Sinh ta, giờ khắc không trùng nhau
Cảnh gặp gần y, cay nỗi đau!
Lắm hận cùng thương: người xứ cát
Ít tình? Tự giễu: kẻ cơm rau
Cá quen tham thịt, quên nguồn nước
Én cố rời đông, báo sắc đào
Nhắn gửi hiện giờ tìm đúng chốn
Củ rừng hoa dại, toàn nghèo đâu!
TRẦN XUÂN AN
chuyển lại thơ
Bài 39
VĂN SƯ THỨ HƯƠNG MANG
Hương Mang kỉ lí khứ Tuyên thành?
Giá thọ thê vân liệt đại doanh
Cương Nỗ giang trình chấn đa kích
Đại Đồng sơn thế cực hu (u) oanh
Hiểm hi vị đỗ thiên môn kính
Thanh tức tiên truyền ngũ đạo binh
Chỉ xích Yên hà giai cố địa
Hương Mang kỉ lí khứ Tuyên thành?
NGUYỄN TÔN NHAN
phiên âm và dịch nghĩa
39
NGHE TIN QUÂN ĐÓNG Ở HƯƠNG MANG (1)
Hương Mang cách xa thành Tuyên (2) mấy dặm?
Cây cối [như] giàn giá, mây trời [làm] giường, giăng
bày nên trại quân lớn
[Ở] Cương Nỗ (3), đường [nước] sông [chảy nhanh,
mạnh như] dội sấm sét, bắn tung lắm [chỗ]
[Tại] Đại Đồng (4) thế núi uốn lượn, rất [đỗi] quanh co
[Những] cái hang, cái lỗ hiểm hóc chưa trám lấp [được],
con đường [hẻm núi (5) nhỏ, mà lại mở ra] ngàn
cửa [rừng]
[Các] tiếng ủy lạo (an ủi, vỗ về, động viên) đã truyền
trước [đến] quân năm đạo (6)
Sông Yên (7) [mỗi] thước, tấc (8) đều là đất cũ [của
nước mình] (9)
Hương Mang cách xa thành Tuyên (2) mấy dặm?
(1), (2) Hương Mang hẳn là tên một rặng núi ở tỉnh Tuyên Quang (ĐNTL.CB., tập 34, sđd., tr. 273). ĐNNTC., tập 4, sđd., chương về tỉnh Tuyên Quang không đề cập đến địa danh này (sđd., tr. 333 - 363).
(3) Cương Nỗ có một ngã ba sông (ĐNNTC., sđd., tr. 351) và bến đò (sđd., tr. 356)...
(4) Đại Đồng (ĐNNTC., sđd., tr. 342, 356, 357). Đó là nơi buôn bán tấp nập, có thể gọi là đô hội (sđd., tr. 356).
(5) Phải chăng tác giả viết về Tiểu Hiệp (sđd., tr. 348)?
(6) Đạo: một đơn vị lớn của quân đội ngày xưa. Có thể hiểu là một cánh quân, một mũi tiến công.
(7) Sông Yên Long, thuộc Tuyên Quang (ĐNNTC., tập 4, sđd., tr. 350).
(8) Thước, tấc ta (40cm, 4cm).
(9) Xem ĐNNTC., tập 4, sđd., tr. 334 - 335, về sự lấn chiếm, trao trả các vùng đất ở biên giới nước ta và Trung Hoa (xung đột biên giới vốn là một vấn đề lớn từ xa xưa). Tác giả có vẻ luyến tiếc những động đất, dặm đất bị chiếm đoạt đó. Xem bài thơ số 30, “Cùng thống đốc Hoàng lên đài cờ, cảm xúc”:
“Cố miện “chiềng chùy” (?) cao các mộng”!
39
NGHE TIN
QUÂN ĐÓNG Ở HƯƠNG MANG
Hương Mang xa mấy thành Tuyên Quang?
Mây chõng, cây giàn, trại lính giăng
Cương Nỗ luồng sông, nhiều sấm dội
Đại Đồng thế núi, lắm lườn ngang
Lỗ nguy chưa lấp: nghìn truông cửa!
Lời sáng đã truyền năm cánh quân
Gang tấc sông Yên đều đất cũ
Hương Mang xa mấy thành Tuyên Quang?
TRẦN XUÂN AN
chuyển lại thơ
Xem tiếp:
http://tranxuanan.writer.2.googlepages.com/tho_nvt-vnvcnthvttuong_13.htm
Cũng có thể xem tại:
http://www.tranxuanan-writer-5.blogspot.com
http://www.tranxuanan-writer-6.blogspot.com
Trở về trang
danh mục tác phẩm -- muc lục:
http://tranxuanan.writer.googlepages.com/danhmtphamtxa_googlepcreator.htm
bài mới -- sách mới -- tin tức mới:
http://tranxuanan.writer.googlepages.com/baimoi-sachmoi-2